Wednesday 8 June 2022

Để hoạt động kiểm toán, định giá, xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp (Bài đăng trên KTSG, 9/6/2022)

https://thesaigontimes.vn/de-hoat-dong-kiem-toan-dinh-gia-xep-hang-tin-nhiem-chuyen-nghiep/

Câu chuyện về tính chuyên nghiệp, độc lập và đạo đức nghề nghiệp của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực “nhạy cảm” gồm kiểm toán, định giá, và xếp hạng tín nhiệm một lần nữa lại trở nên bức bối sau nhiều vụ lùm xùm trên thị trường chứng khoán, trái phiếu gần đây.

Tình cờ là trong các công việc của mình đã trải qua tại các ngân hàng và tổ chức tài chính tại Singapore, người viết đã từng trực tiếp và gián tiếp làm hoặc có “va vấp” với các lĩnh vực nói trên. Bởi vậy, người viết có một số kinh nghiệm và nhận xét rút ra từ các công việc này.

Trước hết, việc xác định và đảm bảo một vị trí làm việc độc lập, không bị chi phối bởi lợi ích có liên quan đến đối tác mà mình đang làm việc là điều trọng yếu. Chẳng hạn, trong công việc kiểm toán nội bộ, dù các đối tác đều là “người nhà”, tức cùng trong một ngân hàng, tuy ở các chi nhánh khác nhau ở các nước khác nhau, nhưng cán bộ kiểm toán vẫn (phải) coi các đối tác này là các đối tác xa lạ, và mục tiêu của đợt kiểm toán là phải tìm cho ra những vấn đề tồn tại, sai sót của chi nhánh trong việc cấp tín dụng cho khách hàng. Việc đánh giá thành tích của đợt kiểm toán cũng hầu như chỉ dựa vào các phát hiện này (với sự “tâm khục khẩu phục” của chi nhánh bị kiểm toán).

Suy rộng ra, tất cả các doanh nghiệp trong các lĩnh vực trên cần tuân thủ và đảm bảo nguyên tắc độc lập về lợi ích với doanh nghiệp mà mình đang cung cấp dịch vụ. Nhưng đến đây, một vấn đề khác lại nảy sinh, là nếu cứ độc lập, làm đúng theo chức trách, nhiệm vụ và đạo đức nghề nghiệp mà không “chịu” bị doanh nghiệp khách hàng chi phối, điều khiển thì lại không được khách hàng... thuê!

Lời giải cho vấn đề này đến từ cả nhiều phía. Phía khách hàng sử dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp lớn, mà chỉ đi thuê các doanh nghiệp kiểm toán “làng nhàng”, chưa/không có uy tín thì đã tự đặt mình vào tầm ngắm của dư luận và nhà chức trách. Không phải ngẫu nhiên mà các ngân hàng lớn lại đòi hỏi khách hàng vay vốn phải có báo cáo tài chính kiểm toán bởi các doanh nghiệp kiểm toán tên tuổi, quốc tế.    

Vể phía doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, nếu coi việc “đi đêm” với doanh nghiệp khách hàng làm lẽ sống, để giành được hợp đồng, để chung chi với nhau thì hãy tự xác định tương lai của mình là rất may rủi và ngắn ngủi.

Về phía nhà chức trách, họ có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phá vỡ cái xu hướng, cái kiểu liên kết ma quỷ này, thông qua công tác thanh tra và xử phạt thích đáng các hành vi phạm pháp liên quan. Chỉ có (tăng cường) làm vậy thì các doanh nghiệp có nhu cầu dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mới có thể chùn tay liên kết với nhau làm bậy để hướng đến hoạt động chuyên nghiệp hơn, đạo đức hơn.

Thực tế của nhiều vụ lùm xùm râm ran từ lâu trong dư luận và chỉ được phát hiện khi đã quá muộn, khi có vấn đề “tình cờ” liên quan nảy sinh cho thấy nhà chức trách đã buông lỏng hoặc yếu kém, thậm chí có cả lợi ích nhóm, trong việc thanh tra, kiểm toán để các liên kết ma quỷ càng có động lực hình thành và hoành hành cho đến nay.

Về phía khách hàng của các doanh nghiệp thuê dịch vụ, chẳng hạn nhà đầu tư mua cổ phiếu hay ngân hàng cho vay, cũng cần nâng cao trình độ và tinh thần cảnh giác với các doanh nghiệp đối tác. Một ví dụ là người viết trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn của một doanh nghiệp thép lớn ở Sài Gòn đã phát hiện việc nhào nặn số liệu trong báo cáo kiểm toán do doanh nghiệp cung cấp, và kết cục là doanh nghiệp này đã bị ngân hàng từ chối cho vay. Hậu quả có thể sẽ còn lớn hơn nếu doanh nghiệp này và doanh nghiệp kiểm toán cho họ bị tố cáo và Việt Nam có cơ chế tiếp nhận và xử lý các tố cáo kiểu này một cách hữu hiệu.

Nhà đầu tư cũng cần thận trọng với các doanh nghiệp có báo cáo tài chính tuy có kiểm toán nhưng lại quá sơ sài, vắn tắt, xem đến thì chỉ cảm nhận được thái độ che giấu, lấp liếm sự thực của doanh nghiệp và cả kiểm toán viên.

Nhận xét thứ hai của người viết là việc tuân thủ quy trình làm việc và các chuẩn mực của nghề nghiệp cũng rất quan trọng. Ví dụ, khi thực hiện kiểm toán nội bộ, người viết phát hiện một số hành vi không tuân thủ đúng quy trình nội bộ (có thể là không cố ý) của một số chi nhánh ngân hàng tại nước ngoài, dẫn đến việc đánh giá không đúng độ tín nhiệm và rủi ro tín dụng của khách hàng. Gạt chuyện đạo đức nghề nghiệp sang bên thì đây chính là tính chuyên nghiệp, lành nghề của cán bộ phân tích, xếp hạng tín nhiệm, đánh giá rủi ro. Khuyến nghị sau kiểm toán cho chi nhánh trong trường hợp này là phải tăng cường đào tạo cho nhân viên về các quy trình, chuẩn mực và kỹ năng liên quan.

Từ chuyện trên suy rộng ra việc xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, vốn đang được coi là lời giải hiệu nghiệm cho, ví dụ, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, cần phải được xem xét một cách cẩn trọng hơn. Bởi cùng một doanh nghiệp phát hành, cùng một bộ số liệu, nhưng vào tay các doanh nghiệp xếp hạn tín nhiệm, cán bộ xếp hạng tín nhiệm khác nhau lại cho ra các kết quả xếp hạng khác nhau, kể cả khi không có vấn đề về đạo đức nghề nghiệp hay xung đột lợi ích.

Do đó, trừ khi có một quy trình và chuẩn mực chung thống nhất cho tất cả doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và việc tuân thủ mọi quy trình và chuẩn mực đều như nhau, sự chuyên nghiệp và lành nghề của cán bộ xếp hạng tín nhiệm là như nhau (điều không thể có trên thực tế), kết quả xếp hạng tín nhiệm sẽ luôn khác nhau cho cùng một doanh nghiệp được xếp hạng, dẫn đến việc xếp hạng tín nhiệm chỉ mang tính tương đối, không nhất thiết là cơ sở để nhà đầu tư định giá trái phiếu một cách hợp lý dựa trên rủi ro tín dụng đi kèm của nó.

Điều cuối cùng mà người viết muốn nêu từ kinh nghiệm của mình là về định giá tài sản, doanh nghiệp. Định giá của các doanh nghiệp luôn phải dựa trên các giả định và dự phóng, bên cạnh việc áp dụng phương pháp định giá cụ thể nào trong số các phương pháp định giá có thể áp dụng. Bởi vậy, điều bình thường là các kết quả định giá sẽ khác nhau, thậm chí ở mức độ rất lớn.

Sẽ là bất thường nếu chỉ căn cứ vào kết quả định giá để kết luận doanh nghiệp định giá nào đó là “bất thường”. Sự bất thường này cần phải được phản ánh qua tính hợp lý, khách quan của các giả định và dự phóng, cũng như mức độ chính xác, trung thực của các dữ liệu sử dụng làm cơ sở cho các giả định và dự phóng đó. Nên hầu như chỉ có thể phân biệt và đánh giá doanh nghiệp định giá nào chuyên nghiệp, độc lập và ngay thẳng với những doanh nghiệp còn lại qua những yếu tố này.

Vì chi tiết quy trình định giá thường là không công khai nên đương nhiên là chỉ có cơ quan chức năng, qua các đợt thanh tra, mới có thể biết được doanh nghiệp định giá nào là chuyên nghiệp, độc lập và trung thực. Do đó, cũng chỉ có cơ quan chức năng với các biện pháp xử phạt thích đáng mới có thể buộc các doanh nghiệp định giá phải tự mình tăng cường tính chuyên nghiệp và cẩn thận hơn về đạo đức nghề nghiệp.

Cũng xin được nhắc lại về tầm quan trọng không thể bỏ qua của “tai mắt nhân dân” và cơ chế tiếp nhận và xử lý tố cáo tiêu cực trong tất cả các lĩnh vực nói trên để buộc các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ luôn phải trong tâm thế “băn khoăn”, dè chừng khi không muốn... độc lập!

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).