Monday 20 June 2022

Hỗ trợ lãi suất có phải là nới lỏng tiền tệ? (Bài đăng trên KTSG, 17/6/2022)

https://thesaigontimes.vn/ho-tro-lai-suat-co-phai-la-noi-long-tien-te/

Một số báo cáo, nhận định gần đây cho rằng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang  “lệch pha”, đi ngược hướng với thế giới. Trong khi nhiều nước trên thế giới đang theo chiều hướng nâng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát thì NHNN đang (chịu sức ép phải) nới lỏng chính sách tiền tệ bởi đang triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%. Ngoài ra, việc đẩy mạnh đầu tư công cũng được cho là biểu hiện của, dẫn đến nới lỏng chính sách tiền tệ.

Hai nhận định trên là không đúng hoặc chưa đủ cơ sở để kết luận như vậy.

Về nhận định rằng NHNN triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% cũng tức là nới lỏng chính sách tiền tệ, điều này chỉ đúng khi NHNN tăng (thêm) cung tiền. Việc tăng cung tiền để một phần đáp ứng nhu cầu chi trả phần trả lãi tính trên phần dư nợ cho vay doanh nghiệp mà ngân hàng thương mại cho vay doanh nghiệp tại mức lãi suất 2%. Một phần khác của cung tiền tăng thêm có thể dùng để tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại khi họ cho đã cho vay doanh nghiệp theo gói hỗ trợ lãi suất 2% này.

Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn chi trả tiền lãi trả cho mức hỗ trợ 2% lãi suất là từ ngân sách nhà nước, với tổng hạn mức là 40 ngàn tỷ đồng (1). Nói cách khác, NHNN sẽ không (phải) chi ra/in thêm 40 ngàn tỷ đồng bù lãi này, và cơ quan chức năng phải làm việc này là Kho bạc Nhà nước.

Do chi tiêu ngân sách, dù là chi tiêu công, không phải là tiền được cung ứng từ NHNN (điều này sẽ được nói thêm ở phần sau), nên rốt cuộc cung tiền của NHNN không thay đổi khi gói hỗ trợ lãi suất 2% được triển khai. Bởi vậy, việc NHNN (phải) tham gia vào gói hỗ trợ lãi suất 2% hoàn toàn không đồng nghĩa với việc NHNN (phải) nới lỏng chính sách tiền tệ.

Chuyển sang vấn đề NHNN tái cấp vốn để ngân hàng thương mại cho vay theo gói hỗ trợ lãi suất, điều này chỉ là một lựa chọn của NHNN chứ NHNN không nhất thiết phải làm vậy. Chẳng hạn, nếu thấy cung tiền đã ở mức đủ lớn, quá lớn trong năm nay, có thể tăng mạnh thêm áp lực lạm phát, NHNN sẽ không tái cấp vốn (cấp thêm, cấp lại vốn) cho ngân hàng thương mại mà buộc ngân hàng thương mại phải cắt giảm cho vay các doanh nghiệp và lĩnh vực khác không thuộc diện ưu tiên, không là đối tượng của gói hỗ trợ lãi suất. Lúc này, hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN cấp cho ngân hàng thương mại không (cần) thay đổi, và cung tiền của NHNN cũng không (cần) thay đổi. Nói cách khác, việc tham gia của NHNN vào gói hỗ trợ lãi suất cũng vẫn không phải là, không liên quan gì đến nới lỏng chính sách tiền tệ.

Về vấn đề tăng đầu tư công đã và đang được hiểu là nới lỏng chính sách tiền tệ. Như đã nói qua ở trên, nguồn tiền cho đầu tư công là từ ngân sách, có được phần lớn là do thu thuế phí và các khoản trích nộp của doanh nghiệp (nhà nước)... Ngân sách nhà nước nếu có liên quan đến NHNN chỉ là ở góc độ, trong những hoàn cảnh đặc biệt, NHNN cho vay trực tiếp ngân sách. Nhưng những hoàn cảnh dẫn đến cho vay kiểu này là rất hi hữu (và bị cấm ở nhiều nước). Thông thường, NHNN có muốn/bị phải hỗ trợ Ngân sách nhà nước thì chỉ có thể làm một cách gián tiếp, thông qua tăng cung tiền để ngân hàng thương mại mua vào trái phiếu Kho bạc (mà không làm tăng lợi suất trái phiếu). Hoặc hi hữu hơn thì là ngân hàng trung ương sẽ trực tiếp mua trái phiếu chính phủ, một hành động gọi là nới lỏng định lượng xảy ra ở Mỹ.

Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, nhất là trong gói hỗ trợ, kích thích kinh tế 300 ngàn tỷ hiện nay, việc NHNN có hưởng ứng bằng cách tăng cung tiền để hỗ trợ Ngân sách nhà nước hay không vẫn chỉ là một lựa chọn chính sách của NHNN. Nếu họ thấy việc tăng cung tiền này sẽ làm tăng áp lực lạm phát, và NHNN cũng chung đồng thuận với nhiều ngân hàng trung ương khác trên thế giới rằng chống lạm phát cần đến công cụ lãi suất (tăng lãi suất) thì NHNN sẽ không tăng cung tiền. Như vậy thì dù có tăng đầu tư công, chi tiêu công thì cũng không đồng nghĩa với nới lỏng chính sách tiền tệ.

Lưu ý thêm rằng sai lầm được chỉ ra ở trên (về quan hệ giữa tăng đầu tư/chi tiêu công và nới lỏng chính sách tiền tệ) đã xảy ra không chỉ đối với Việt Nam mà còn ngay cả đối với Mỹ. Chẳng hạn, đã có nhiều người ở Việt Nam chỉ trích sự “ngu ngốc” của Bộ trưởng Tài chính Mỹ khi bà này cho rằng gói chi tiêu 1,75 ngàn tỷ đô la của Tổng thống Biden giúp giảm lạm phát hồi tháng 10/2021. Lập luận của những người chỉ trích là lạm phát là do chính phủ tăng chi tiêu nên thực ra gói chi tiêu 1,75 ngàn tỷ đô la lại “đổ thêm dầu vào lửa” chứ không giúp giảm lạm phát.

Như đã nói ở trên, chi tiêu công là một chuyện, ngân hàng trung ương có tăng cung tiền hay không lại là chuyện khác, do đó tăng chi tiêu công có làm tăng lạm phát hay không lại là một chuyện khác nữa. Ngay ở Mỹ, dù chi tiêu công đã tăng mạnh như vậy nhưng mặt khác, Fed lại thắt chặt chính sách tiền tệ, nâng lãi suất, thu hẹp nới lỏng định lượng. Do đó, cho dù chi tiêu công đã tăng mạnh nhưng với chiều hướng thắt ngày càng chặt của chính sách tiền tệ của Fed thì lạm phát ở Mỹ không thể không quay trở lại mức bình thường được. Và Việt Nam cũng (sẽ) vậy!

 ---

(1) https://plo.vn/cap-toc-dua-goi-ho-tro-lai-suat-2-den-doanh-nghiep-post683080.html#:~:text=Ng%C3%A2n%20h%C3%A0ng%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20(NHNN,h%E1%BA%BFt%2031%2D12%2D2023.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).