https://thesaigontimes.vn/ho-tro-lai-suat-co-phai-la-noi-long-tien-te/
Một số báo cáo,
nhận định gần đây cho rằng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đang “lệch pha”, đi ngược hướng với thế
giới. Trong khi nhiều nước trên thế giới đang theo chiều hướng nâng lãi suất,
thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát thì NHNN đang (chịu sức ép phải)
nới lỏng chính sách tiền tệ bởi đang triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%. Ngoài
ra, việc đẩy mạnh đầu tư công cũng được cho là biểu hiện của, dẫn đến nới lỏng
chính sách tiền tệ.
Hai nhận định
trên là không đúng hoặc chưa đủ cơ sở để kết luận như vậy.
Về nhận định rằng
NHNN triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% cũng tức là nới lỏng chính sách tiền tệ,
điều này chỉ đúng khi NHNN tăng (thêm) cung tiền. Việc tăng cung tiền để một phần
đáp ứng nhu cầu chi trả phần trả lãi tính trên phần dư nợ cho vay doanh nghiệp
mà ngân hàng thương mại cho vay doanh nghiệp tại mức lãi suất 2%. Một phần khác
của cung tiền tăng thêm có thể dùng để tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại khi
họ cho đã cho vay doanh nghiệp theo gói hỗ trợ lãi suất 2% này.
Tuy nhiên, trên
thực tế, nguồn chi trả tiền lãi trả cho mức hỗ trợ 2% lãi suất là từ ngân sách
nhà nước, với tổng hạn mức là 40 ngàn tỷ đồng (1). Nói cách khác, NHNN sẽ không
(phải) chi ra/in thêm 40 ngàn tỷ đồng bù lãi này, và cơ quan chức năng phải làm
việc này là Kho bạc Nhà nước.
Do chi tiêu ngân
sách, dù là chi tiêu công, không phải là tiền được cung ứng từ NHNN (điều này sẽ
được nói thêm ở phần sau), nên rốt cuộc cung tiền của NHNN không thay đổi khi
gói hỗ trợ lãi suất 2% được triển khai. Bởi vậy, việc NHNN (phải) tham gia vào
gói hỗ trợ lãi suất 2% hoàn toàn không đồng nghĩa với việc NHNN (phải) nới lỏng
chính sách tiền tệ.
Chuyển sang vấn đề
NHNN tái cấp vốn để ngân hàng thương mại cho vay theo gói hỗ trợ lãi suất, điều
này chỉ là một lựa chọn của NHNN chứ NHNN không nhất thiết phải làm vậy. Chẳng
hạn, nếu thấy cung tiền đã ở mức đủ lớn, quá lớn trong năm nay, có thể tăng mạnh
thêm áp lực lạm phát, NHNN sẽ không tái cấp vốn (cấp thêm, cấp lại vốn) cho
ngân hàng thương mại mà buộc ngân hàng thương mại phải cắt giảm cho vay các
doanh nghiệp và lĩnh vực khác không thuộc diện ưu tiên, không là đối tượng của
gói hỗ trợ lãi suất. Lúc này, hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN cấp cho ngân
hàng thương mại không (cần) thay đổi, và cung tiền của NHNN cũng không (cần) thay
đổi. Nói cách khác, việc tham gia của NHNN vào gói hỗ trợ lãi suất cũng vẫn
không phải là, không liên quan gì đến nới lỏng chính sách tiền tệ.
Về vấn đề tăng đầu
tư công đã và đang được hiểu là nới lỏng chính sách tiền tệ. Như đã nói qua ở trên,
nguồn tiền cho đầu tư công là từ ngân sách, có được phần lớn là do thu thuế phí
và các khoản trích nộp của doanh nghiệp (nhà nước)... Ngân sách nhà nước nếu có
liên quan đến NHNN chỉ là ở góc độ, trong những hoàn cảnh đặc biệt, NHNN cho
vay trực tiếp ngân sách. Nhưng những hoàn cảnh dẫn đến cho vay kiểu này là rất
hi hữu (và bị cấm ở nhiều nước). Thông thường, NHNN có muốn/bị phải hỗ trợ Ngân
sách nhà nước thì chỉ có thể làm một cách gián tiếp, thông qua tăng cung tiền để
ngân hàng thương mại mua vào trái phiếu Kho bạc (mà không làm tăng lợi suất
trái phiếu). Hoặc hi hữu hơn thì là ngân hàng trung ương sẽ trực tiếp mua trái
phiếu chính phủ, một hành động gọi là nới lỏng định lượng xảy ra ở Mỹ.
Trong hoàn cảnh
hiện tại của Việt Nam, nhất là trong gói hỗ trợ, kích thích kinh tế 300 ngàn tỷ
hiện nay, việc NHNN có hưởng ứng bằng cách tăng cung tiền để hỗ trợ Ngân sách
nhà nước hay không vẫn chỉ là một lựa chọn chính sách của NHNN. Nếu họ thấy việc
tăng cung tiền này sẽ làm tăng áp lực lạm phát, và NHNN cũng chung đồng thuận với
nhiều ngân hàng trung ương khác trên thế giới rằng chống lạm phát cần đến công
cụ lãi suất (tăng lãi suất) thì NHNN sẽ không tăng cung tiền. Như vậy thì dù có
tăng đầu tư công, chi tiêu công thì cũng không đồng nghĩa với nới lỏng chính
sách tiền tệ.
Lưu ý thêm rằng
sai lầm được chỉ ra ở trên (về quan hệ giữa tăng đầu tư/chi tiêu công và nới lỏng
chính sách tiền tệ) đã xảy ra không chỉ đối với Việt Nam mà còn ngay cả đối với
Mỹ. Chẳng hạn, đã có nhiều người ở Việt Nam chỉ trích sự “ngu ngốc” của Bộ trưởng
Tài chính Mỹ khi bà này cho rằng gói chi tiêu 1,75 ngàn tỷ đô la của Tổng thống
Biden giúp giảm lạm phát hồi tháng 10/2021. Lập luận của những người chỉ trích là
lạm phát là do chính phủ tăng chi tiêu nên thực ra gói chi tiêu 1,75 ngàn tỷ đô
la lại “đổ thêm dầu vào lửa” chứ không giúp giảm lạm phát.
Như đã nói ở
trên, chi tiêu công là một chuyện, ngân hàng trung ương có tăng cung tiền hay
không lại là chuyện khác, do đó tăng chi tiêu công có làm tăng lạm phát hay
không lại là một chuyện khác nữa. Ngay ở Mỹ, dù chi tiêu công đã tăng mạnh như
vậy nhưng mặt khác, Fed lại thắt chặt chính sách tiền tệ, nâng lãi suất, thu hẹp
nới lỏng định lượng. Do đó, cho dù chi tiêu công đã tăng mạnh nhưng với chiều
hướng thắt ngày càng chặt của chính sách tiền tệ của Fed thì lạm phát ở Mỹ
không thể không quay trở lại mức bình thường được. Và Việt Nam cũng (sẽ) vậy!
---
(1) https://plo.vn/cap-toc-dua-goi-ho-tro-lai-suat-2-den-doanh-nghiep-post683080.html#:~:text=Ng%C3%A2n%20h%C3%A0ng%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20(NHNN,h%E1%BA%BFt%2031%2D12%2D2023.
No comments:
Post a Comment