https://thesaigontimes.vn/sao-lai-cam-cong-ty-bao-hiem-kinh-doanh-bat-dong-san/
Tại Kỳ họp thứ 3,
Quốc hội khoá XV, Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) được đưa ra thảo luận tại
hội trường. Theo dự thảo, doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, chi nhánh doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm... không được kinh doanh bất động sản,
với một số ngoại trừ như mua để làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc
cho thuê trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết...
Trước đó, theo Luật
Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 thì các doanh nghiệp bảo hiểm được phép kinh doanh
bất động sản. Lý do của việc nghiêm cấm theo dự thảo luật sửa đổi nói trên,
theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, là bởi Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014
quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp
hoặc hợp tác xã. Do đó, để đảm bảo thống nhất giữa luật về bảo hiểm và kinh
doanh bất động sản, dự thảo luật sửa đổi đã bỏ quy định về cho phép doanh nghiệp
bảo hiểm được dùng vốn nhàn rỗi để kinh doanh bất động sản.
Lý do không cho
phép doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản như trên là rất khập khiễng.
Không nói đến
chuyện Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 đòi hỏi tổ chức, cá nhân kinh
doanh bất động sản (tức gồm doanh nghiệp bảo hiểm) phải thành lập doanh nghiệp
hoặc hợp tác xã để được phép làm việc này – kinh doanh bất động sản – liệu có là hợp lý hay không, nhưng cần khẳng
định, về mặt câu chữ, Luật Kinh doanh bất động sản không có điều khoản nào cấm
doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản. Bản thân doanh nghiệp bảo hiểm
đã là một doanh nghiệp nên họ không phải là đối tượng bị cấm kinh doanh bất động
sản theo quy định liên quan này của Luật Kinh doanh bất động sản.
Nếu vẫn cứ “băn
khoăn” về chuyện doanh nghiệp bảo hiểm lại “nhảy” sang kinh doanh “trái ngành
nghề” là bất động sản thì cần lưu ý rằng Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện tại cho
phép doanh nghiệp bảo hiểm mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hoặc góp vốn
vào các doanh nghiệp khác. Trong khi đó, dự thảo luật sửa đổi không đề cập gì đến
cấm doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào các lĩnh vực này nên từ đó suy ra doanh
nghiệp bảo hiểm vẫn sẽ tiếp tục được phép đầu tư (gián tiếp) vào các lĩnh vực này
(gồm cả việc cho một cá nhân nào đó tiến hành lập một doanh nghiệp bất động sản
rồi tiến hành mua lại hoặc nắm sở hữu chi phối doanh nghiệp này). Do đó, dù có
bị cấm nhưng bằng cách này hay cách khác thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn có cácch
kinh doanh bất động sản một cách hợp pháp.
Điều quan trọng
hơn là, ngoài lý do pháp lý khập khiễng nói trên, việc cấm doanh nghiệp bảo hiểm
kinh doanh bất động sản là việc vô lý, thậm chí rất có hại cho nền kinh tế nói
chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng.
Thông thường, chiến
lược đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm có bốn nguyên tắc. Thứ nhất, các kỳ hạn
phải tương ứng với nhau. Tài sản đầu tư phải có kỳ hạn tương ứng với tài sản nợ
của doanh nghiệp bảo hiểm, tức có nghĩa là dài hạn, 10 năm hoặc hơn trong tương
lai. Thứ hai, tài sản đầu tư phải có rủi ro tín dụng thấp. Doanh nghiệp bảo hiểm
không thể mạo hiểm đầu tư vào các tài sản rủi ro cao để rồi lâm vào cảnh mất khả
năng chi trả các nghĩa vụ bảo hiểm trong tương lai. Thứ ba, đầu tư của doanh
nghiệp bảo hiểm phải đa dạng, từ loại hình tài sản đến tính thanh khoản và lĩnh
vực đầu tư để luôn đảm bảo dòng tiền ổn định trong mọi hoàn cảnh thị trường. Và
thứ tư, doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng yêu cầu vốn an toàn tối thiểu đối với
mỗi loại tài sản mà họ đầu tư. Rủi ro của tài sản đầu tư càng cao thì doanh
nghiệp bảo hiểm càng phải có dự phòng vốn cao để bù đắp mất mát vốn trong tương
lai (1).
Dựa trên các
nguyên tắc trên, doanh nghiệp bảo hiểm (nhân thọ), cụ thể là ở Mỹ trong bài
này, đầu tư mạnh vào lĩnh vực bất động sản. Bất động sản đối với doanh nghiệp bảo
hiểm (ở Mỹ) là kênh đầu tư chủ yếu bởi (họ coi) đầu tư bất động sản là đầu tư dài
hạn và có rủi ro tín dụng thấp. Bất động sản cũng mang lại cơ hội cho doanh
nghiệp bảo hiểm đầu tư vào cả tài sản có thanh khoản cao và kém thanh khoản.
Doanh nghiệp bảo
hiểm có ba cách thức đầu tư vào bất động sản: thông qua cho vay trả góp bất động
sản thương mại, trực tiếp nắm giữ và kinh doanh bất động sản, và nắm giữ chứng
khoán bảo đảm bằng các khoản vay trả góp bất động sản (MBS). Đây là những tài sản
đầu tư mang lại cho doanh nghiệp bảo hiểm nguồn thu nhập có thể tiên lượng để đối
ứng với các nghĩa vụ chi trả có thể tiên lượng được của họ. Ngược lại, doanh
nghiệp bảo hiểm Mỹ đầu tư ít vào các tài sản có tính thanh khoản cao hơn như
trái phiếu Kho bạc Mỹ, cổ phiếu công ty niêm yết và tiền mặt. Tổng các tài sản
có thanh khoản cao này chỉ chiếm chưa đầy 10% tổng danh mục đầu tư của doanh
nghiệp bảo hiểm.
Trong lĩnh vực
cho vay trả góp bất động sản thương mại, doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ chiếm khoảng
16% tổng dư nợ trong lĩnh vực này năm 2017 (1). Các khoản cho vay này mang lại
nguồn thu nhập ổn định, đa dạng hóa và có chất lượng (rủi ro thấp) cho doanh
nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo
hiểm Mỹ cũng trực tiếp đầu tư vào bất động sản thông qua mua lại, tân trang, và
điều hành các tòa nhà thương mại hoặc chung cư. Ngoài nguồn thu nhập ổn định từ
tiền cho thuê bất động sản thương mại, doanh nghiệp bảo hiểm còn được lợi từ sự
lên giá của bất động sản trong dài hạn. Riêng trong lĩnh vực này, các nhà kinh
tế ước tính cứ mỗi một đô la chi tiêu của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ mang lại 2,64
đô la cho nền kinh tế thực ở Mỹ.
Với kênh đầu tư bất
động sản thông qua nắm giữ MBS, đây cũng là một kênh đầu tư mang lại nguồn thu
nhập ổn định trong thời gian dài, với rủi ro hạn chế. Thường thì các loại chứng
khoán này không có lợi tức cao nhưng chúng giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm đa dạng
hóa danh mục đầu tư.
Trở lại với trường
hợp của Việt Nam. Hiệp hội bất động sản (HoREA) cho rằng, việc không cho doanh
nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản là đúng nhưng nên cho phép đầu tư bất động
sản (2). Đây là một nhận định rất... đáng tiếc! Bởi, một mặt, họ đã nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của (việc khuyến khích) doanh nghiệp bất động sản sử
dụng nguồn vốn (nhàn rỗi) của mình đầu tư trở lại nền kinh tế, trong đó có lĩnh
vực bất động sản. Mặt khác, họ lại “cắc cớ” phân biệt “kinh doanh bất động sản”
với “đầu tư bất động sản”, như thể họ e ngại dùng hoặc cho rằng “kinh doanh” có
ý nghĩa không mấy tích cực, mang tính trục lợi hơn là “đầu tư”, có ý nghĩa đóng
góp, làm lợi cho nền kinh tế.
Thực ra, như với
trường hợp của Mỹ nêu trên, các hành động đầu tư đó đều có thể coi là việc kinh
doanh (bất động sản). Chẳng hạn, trong việc mua lại và tân trang tòa nhà, chung
cư, doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải xem xét nhiều yếu tố để tối đa hóa dòng tiền
và lợi nhuận cho họ trong tương lai, kể cả việc lên giá của tòa nhà và hạn chế
thấp nhất chi phí tân trang và điều hành (cho thuê) tòa nhà, cũng như tối đa
hóa nguồn tiền cho thuê... Đây không phải là kinh doanh (bất động sản) thì gọi
là gì?
Họ cũng hoàn toàn
có thể bán lại tòa nhà này khi có lãi và khi cần. Theo cách hiểu của HoREA, phải
chăng việc bán thu lợi nhuận (trong tương lai) này sẽ không được gọi là đầu tư?
Tóm lại, về mặt
ngữ nghĩa, logic, không thể chỉ vì Luật Kinh doanh bất động sản có một quy định
hầu như không có gì liên quan đến doanh nghiệp bảo hiểm (dù cố tình gò ép) mà lại
đi cấm doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản. Còn về mặt kinh tế thì
càng không có lý do gì để cấm, bởi ngành bảo hiểm cũng có các nguyên tắc và quy
định hoạt động an toàn riêng để hạn chế rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán,
trong khi làm lợi lớn cho nền kinh tế.
Cái cần quản lý,
nếu có, chỉ có thể là giám sát và kiểm tra việc tuân thủ các tiêu chuẩn hoạt động
an toàn này mà thôi. Chứ không phải là cấm họ kinh doanh bất động sản.
----
(1) https://www.centerforcapitalmarkets.com/wp-content/uploads/2019/03/CCMC_InsurancePaper_v2.pdf
(2) https://vneconomy.vn/nghiem-cam-cong-ty-bao-hiem-dau-tu-bat-dong-san.htm
No comments:
Post a Comment