Saturday 2 July 2022

Lãi suất điều hành chưa tăng nhưng chính sách tiền tệ đã bắt đầu thắt chặt! (Bài đăng trên KTSG, 30/6/2022)

https://thesaigontimes.vn/lai-suat-dieu-hanh-chua-tang-nhung-chinh-sach-tien-te-da-bat-dau-that-chat/

Trong làn sóng tăng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ của nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới, đường hướng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong thời gian tới ra sao là một vấn đề còn đang gây thắc mắc. Hiện tại, NHNN vẫn khẳng định “tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành” (1).

Chính sách tiền tệ đã bắt đầu thắt chặt

Phát ngôn trên của NHNN có thể được thị trường “phiên dịch” ra thành chính sách tiền tệ sẽ không bị thắt chặt, bởi nếu hiểu theo lẽ thông thường thì thắt chặt tiền tệ phải đi đôi với, là kết quả của việc nâng lãi suất điều hành.

Tuy nhiên, thực tế thì NHNN đã bước đầu thắt chặt chính sách tiền tệ của mình (giảm cung tiền), được thể hiện rõ qua việc liên tục tung tín phiếu ra để hút tiền từ hệ thống ngân hàng về, với quy mô được ước tính khoảng 70.000 tỉ đồng. Nói cách khác, cung tiền thực sự đã giảm đi 70.000 tỉ đồng, nếu các điều kiện khác không thay đổi. Ví dụ, NHNN không đồng thời cho vay tái cấp vốn, cho vay chiết khấu giấy tờ có giá cho các ngân hàng thương mại từ khoản 70.000 tỉ đồng này (nhưng hiện tại chưa thấy có báo cáo nào đề cập đến các hoạt động này).

NHNN cũng được báo cáo đã bán ra trong tháng 5 khoảng 7 tỉ đô la Mỹ qua phương thức kỳ hạn 3 tháng không hủy ngang (tổng cộng qua các đợt lên đến hơn 10 t đô la)(2). Dựa vào hoạt động này, một số báo cáo cũng cho rằng NHNN đã hút tiền đồng về. Tuy nhiên, kết luận này là quá sớm bởi vẫn có khả năng khi đến thời điểm thanh toán, NHNN sẽ tung ngược trở lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đồng thu từ bán đô la kỳ hạn 3 tháng này ra nền kinh tế, thông qua mua tín phiếu và/hoặc cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu.

Do vậy, điều chỉ có thể khẳng định tại thời điểm này là NHNN đã thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua hút tiền đồng từ kênh tín phiếu như nói trên.    

Thắt chặt chính sách tiền tệ nhưng lại giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, hiểu thế nào cho đúng?

Quay lại với phát biểu của NHNN nêu ở phần đầu. Ở đây có chút hơi hướng của sự “nói vậy mà không phải vậy”.

Các mức lãi suất điều hành được đề cập đến thường chỉ là lãi suất cho vay của NHNN. Để giảm cung tiền, tức hạn chế cho vay ra nền kinh tế mà không phải tăng các lãi suất điều hành thì NHNN chỉ còn cách... ngừng cho vay ngân hàng thương mại. Đơn giản bởi một khi tiếp tục cho vay ngân hàng thương mại thì NHNN phải tiếp tục áp dụng các mức lãi suất điều hành hiện thời, vốn ở mức thấp nhằm khuyến khích tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn nới lỏng chính sách tiền tệ thời đại dịch trước đây.

Tuy nhiên, với tư cách là người cho vay cuối cùng, NHNN phải luôn sẵn sàng cho vay ngân hàng thương mại trong mọi thời điểm để tránh thiếu hụt, khủng hoảng thanh khoản. Như thế có nghĩa là NHNN không thể đóng băng việc cho vay ngân hàng thương mại trong bất cứ thời điểm nào.

Mặt khác, lãi suất điều hành, và tức là lãi suất cho vay của NHNN, trên danh nghĩa có thể chưa/không tăng nhưng thực tế NHNN đã tăng lãi suất đi vay của mình. Điều này được thể hiện qua việc NHNN phải nâng lãi suất đấu thầu tín phiếu kỳ hạn 7 ngày từ 0,3% lên 0,7% trong các phiên đấu thầu tuần trước (3).

Kết cục, NHNN đang phải đối mặt với tình huống vẫn phải sẵn sàng cho vay với lãi suất thấp trong khi lại đi “huy động” với lãi suất cao nhằm giảm cung tiền. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết thông qua hoặc chính thức công bố nâng các mức lãi suất điều hành như việc phải làm của nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới, hoặc ngấm ngầm áp dụng các mức lãi suất cho vay cao hơn với từng ngân hàng thương mại để... không phải công bố các mức lãi suất điều hành mới.  

Đương nhiên, sự ngấm ngầm nói trên, nếu có, là điều không có lợi xét trên nhiều khía cạnh nên tốt nhất là không nên được áp dụng. Do đó, có thể nói, một khi NHNN đã bắt đầu siết lại chính sách tiền tệ (hút tiền đồng về) thì việc công bố nâng các mức lãi suất điều hành chỉ còn là vấn đề thời gian.

Trên thị trường, dường như chính vì phát biểu tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành của NHNN mà nhiều báo cáo phân tích đã đưa ra dự đoán NHNN chắc sẽ chỉ nâng lãi suất điều hành vào quí 4 năm nay.

Như đã phân tích, thật khó mà tưởng tượng NHNN sẽ đóng băng việc cho vay các ngân hàng thương mại tại các mức lãi suất điều hành hiện thời trong cả mấy tháng, thậm chí đến gần nửa năm nữa. Việc nếu có ngấm ngầm áp dụng lãi suất cao hơn đối với từng ngân hàng thương mại cũng chỉ mang tính câu giờ.

Do vậy, nếu NHNN tiếp tục xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ như được khởi động từ trung tuần tháng 6 này với các đợt phát hành tín phiếu thì NHNN sẽ phải sớm công bố nâng các mức lãi suất điều hành.   

Trường hợp không diễn ra như vậy thì... phải xem lại lập trường chính sách tiền tệ của NHNN. Rất có thể nó đã bị đảo chiều khi đó!

------

(1) https://cafef.vn/tai-chinh-da-chieu-sap-tang-lai-suat-2022062508485259.chn

(2)https://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-da-ban-ra-hon-10-ty-usd-tu-du-tru-ngoai-hoi-20220625103217051.chn

(3)https://cafef.vn/vua-khoi-dong-lai-kenh-hut-tien-nhnn-da-rut-gan-50000-ty-ra-khoi-he-thong-20220624101259464.chn

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).