Tuesday 19 July 2022

Duy trì room tín dụng: Nên hay không? (Bài đăng trên KTSG, 18/7/2022)

https://thesaigontimes.vn/duy-tri-room-tin-dung-nen-hay-khong/ 

Trong số tuần trước, KTSG có đăng bài “Vì sao Việt Nam vẫn cần ‘room’ tín dụng?” (“bài viết”). Bài viết dường như cổ xúy việc duy trì room tín dụng, và kết luận rằng nhờ room tín dụng nên đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát được quản lý tốt, tỷ giá biến động trong biên độ hẹp), giúp gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Người viết nhận thấy một số lập luận trong bài viết chưa chặt chẽ nên kết luận như trên là chưa thỏa đáng. Theo người viết, ngược lại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần nhanh chóng bỏ room tín dụng, tức là bỏ việc đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm.    

Vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam “rất khác” nhưng là khác thế nào?

Bài viết cho rằng hệ thống ngân hàng Việt Nam đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bơm vốn cho nền kinh tế. Chắc vì thế bài viết mới đưa ra nhận định rằng vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam “rất khác”.

Các dữ liệu và lập luận đưa ra trong bài viết nêu ra ba ý minh họa cho cái sự “rất khác” này: (i) tăng trưởng tín dụng của Việt Nam đứng hàng đầu ở châu Á; (ii) nhu cầu vốn dài hạn của nền kinh tế đang phụ thuộc (nhiều) vào nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng; và (iii) hiệu quả của tín dụng trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế đã được cải thiện nhờ áp dụng room tín dụng.

Đáng tiếc là cả ba ý trên đều không nêu bật được sự “rất khác” của vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế. Để chứng minh được sự rất khác này, bài viết lẽ ra cần có thêm những so sánh tương ứng với quốc tế và khu vực.

Tuy ý (i) trên có sự so sánh với khu vực, nhưng từ sự so sánh đó thì không thể dẫn đến kết luận gì về sự khác biệt trong vai trò của hệ thống ngân hàng với nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng cao chỉ là kết quả của chủ ý “bơm” mạnh tiền (nới lỏng (quá mức) chính sách tiền tệ) của NHNN trong tham vọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (ý này sẽ được nói thêm ở phần dưới). Bài viết lẽ ra cần chứng minh rằng, ví dụ, ở nhiều nước khác, với cùng mức bơm tiền (tăng cung tiền từ ngân hàng trung ương) nhưng tăng trưởng tín dụng đã không tăng mạnh như ở Việt Nam, để từ đó mới làm toát lên cái sự “rất khác” ở Việt Nam.    

Ở ý (ii), tương tự, bài viết cũng cần có những so sánh với các nước khác để cho thấy (hầu như) chỉ có mỗi Việt Nam là xảy ra tình trạng nguồn vốn ngắn hạn ngân hàng phải gánh vác nhu cầu vốn dài hạn của nền kinh tế. Nếu không làm được như vậy thì buộc phải kết luận rằng tình trạng này là rất... bình thường!

Ý (iii) là rất khiên cưỡng khi cho rằng nhờ có room tín dụng mà hiệu quả sử dụng vốn đã được cải thiện. Lý do đơn giản của sự cải thiện này là tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh. Nhưng tăng trưởng tín dụng giảm hay tăng đều là chủ ý, đều bắt nguồn từ việc chính sách tiền tệ của NHNN được thắt chặt hay nới lỏng thêm.

Room tín dụng nếu có vai trò ở đây thì chỉ là một sự biểu hiện ra thành câu chữ, văn bản của đường hướng chính sách tiền tệ của NHNN trong mỗi thời kỳ. Chẳng hạn, room tín dụng năm nay nếu được đặt ở mức là 15% so với mức 25% của năm trước thì cần phải hiểu rằng NHNN muốn vặn bớt lại vòi bơm tiền trong năm nay so với năm trước, và chỉ thế thôi.

Trên hết, cần lưu ý rằng tiền để cho vay (tín dụng) trong hệ thống ngân hàng không phải là do các ngân hàng thương mại tự in/bơm ra, mà đều bắt nguồn từ cái van tổng là NHNN. Nên nếu NHNN giảm cung tiền thì không có cách gì mà tăng trưởng tín dụng (của cả hệ thống) lại có thể “bứt phá” được.

NHNN cũng quản lý cung tiền thông qua... lãi suất!

Tiếp theo các lập luận chưa hợp lý nói trên, bài viết đề cập đến một vấn đề còn chưa hợp lý hơn nữa. Một mặt, trong khi chỉ ra rằng Fed (ngân hàng trung ương Mỹ) quản lý cung tiền thông qua lãi suất, bài viết lại cho rằng việc quản lý cung tiền ở Việt Nam chủ yếu thông qua kênh ngân hàng thương mại.

Nhầm lẫn trên có lẽ bắt nguồn từ nhận thức sai lầm, như nói ở phần trên, rằng tín dụng của ngân hàng thương mại là độc lập với cung tiền của NHNN nên nếu muốn siết/quản lý cung tiền thì chỉ cần siết/quản lý tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thương mại là xong.  

Một khi đã nói đến cung tiền – money supply thì phải hiểu rằng đây là cung tiền của/từ NHNN chứ không phải là của/từ một ngân hàng hay cả hệ thống ngân hàng thương mại. Do đó, quản lý cung tiền luôn là việc của NHNN và được thực hiện tại NHNN, thông qua các mức lãi suất điều hành của NHNN như lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất trên thị trường mở. Tóm lại là về bản chất cũng không có sự khác biệt gì so với Mỹ.  

Cần sớm bỏ room tín dụng

Từ những bất hợp lý được chỉ ra ở trên, có thể nói bài viết đã không nêu ra được một căn cứ chắc chắn nào hậu thuẫn cho việc ủng hộ duy trì room tín dụng cho cả hệ thống ngân hàng nói chung và từng ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, người viết cũng không muốn kết luận một cách dễ dãi từ đây, tuy khá... logic, rằng cần phải làm ngược lại, tức bỏ room tín dụng.

Thực tế, người viết đã có một số bài viết trên KTSG về cùng đề tài, mà gần đây nhất là bài “Hạn mức tăng trưởng tín dụng: những lý do… chưa xác đáng!” (1). Một số lập luận trong bài này, cũng đã được nêu trên, là: (i) NHNN hoàn toàn đúng đắn khi cẩn trọng với rủi ro đến từ việc tín dụng tăng trưởng quá cao. Nhưng để quản lý tăng trưởng tín dụng thì NHNN chỉ cần quản lý cung tiền. Muốn hạn chế tăng trưởng tín dụng thì chỉ cần hạn chế tăng cung tiền/hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ, chứ không phải là quay ra ban hành và áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng; và (ii) Dù người viết và các tổ chức nước ngoài như IMF và Moody’s đã chỉ ra những bất cập của hạn mức tăng trưởng tín dụng nhưng NHNN vẫn “kiên định” duy trì hạn mức này. Sự kiên định này cho thấy dường như NHNN đang sử dụng hạn mức này với các ý đồ khác, chẳng hạn sử dụng nó như “cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu đúng vậy thì dễ hiểu tại sao NHNN lại luôn bảo vệ công cụ hạn mức này nhưng tiếc là lại bằng những lý do chưa xác đáng,

Nói cách khác, room tín dụng cần sớm được loại bỏ nhưng, về phía NHNN, họ sẽ không bỏ nó chừng nào chưa tìm ra được công cụ “cây gậy hay củ cà rốt” khác để thay thế.   

-----

(1) https://thesaigontimes.vn/han-muc-tang-truong-tin-dung-nhung-ly-do-chua-xac-dang/

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).