Monday 18 July 2022

Tại sao lãi suất lại tăng? (Bài đăng trên KTSG, 17/7/2022)

https://thesaigontimes.vn/tai-sao-lai-suat-lai-tang/

Lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại trong nửa đầu năm nay có xu hướng tăng với mức tăng khoảng 0,5 đến 1 điểm % tính đến tháng 6 so với cuối năm trước.

Một số ý kiến cho rằng nguyên nhân của xu hướng tăng này là do thanh khoản trong hệ thống ngân hàng không còn dồi dào như năm 2021. Cụ thể, nhu cầu tín dụng nửa đầu năm nay đã tăng mạnh, ở mức 8,5% so với cuối năm 2021 (mức tương ứng của năm 2021 là 6,8%), trong khi huy động vốn chỉ tăng gần 4% so với cùng kỳ (1).

Nguyên nhân trên là hoàn toàn không sai. Có điều, nó vẫn chưa trả lời được đâu là nguồn gốc của lãi suất tăng, vì nguyên nhân tại sao vốn huy động tăng chậm vẫn chưa được trả lời.

Tại sao huy động vốn tăng chậm?

Vốn huy động là một hàm số với nhiều biến số chi phối, trong đó có lãi suất huy động và mức độ sẵn có của vốn có thể huy động trong nền kinh tế. Với các điều kiện khác không thay đổi, gồm lãi suất huy động không thay đổi, số vốn huy động được sẽ tăng/giảm nếu mức độ sẵn có của vốn có thể huy động trong nền kinh tế cũng tăng/giảm tương ứng.

Câu hỏi tiếp đến là, điều gì quyết định số vốn có thể huy động trong nền kinh tế? Đó chính là cung tiền của ngân hàng trung ương. Cung tiền nhiều hay ít, tăng lên hay giảm đi thường được thể hiện qua số liệu M2, mà ở Việt Nam được gọi là tổng phương tiện thanh toán.

Số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, như ở biểu dưới, tăng trưởng của M2 so với cùng kỳ năm trước đã  giảm tốc rõ rệt kể từ nửa năm sau của 2021 kéo dài sang bốn tháng đầu năm 2022. Cụ thể, bốn tháng đầu năm nay, tăng trưởng M2 trung bình là 11,95%. Nửa năm sau của năm 2021, tốc độ này cao hơn một chút, ở mức 12,2%, so với mức cao hơn thế nhiều là 14,52% ghi nhận trong nửa năm đầu 2021.

Do tháng 4 là tháng mới nhất có số liệu về M2 nên chưa thể khẳng định những tháng sau đó xu hướng giảm tốc của M2 quan sát trước đó có tiếp tục hay không. Tuy nhiên, dựa vào diễn biến mới gần đây của NHNN tăng cường hút tiền qua kênh phát hành tín phiếu và bán USD giao ngay, có thể kết luận tương đối chắc chắn rằng xu hướng giảm tốc M2 đã và đang tiếp diễn trong các tháng qua cho đến nay.

Chính cung tiền, M2, tăng trưởng chậm lại đã làm lượng tiền có thể huy động trong nền kinh tế để cho vay không còn dồi dào như trước trong bối cảnh nhu cầu vay từ nền kinh tế đã tăng mạnh như nói ở trên. Tại mức lãi suất huy động không đổi, do cung tiền giảm tốc nên tốc độ tăng vốn huy động được sẽ phải giảm tương ứng. Để phá vỡ sự trì trệ này, tăng cường huy động vốn, ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động và rốt cuộc là lãi suất cho vay.        

“Room” tín dụng có sớm được nới?

Khi đã rõ gốc rễ của xu hướng tăng lãi suất hiện nay thì có thể hiểu đúng điều gì có liên quan đang và sẽ xảy ra tiếp. Nhiều người cho rằng room (trần hạn mức tăng trưởng) tín dụng sẽ sớm được NHNN nâng lên cho nhiều ngân hàng thương mại vốn có tốc độ tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đã tiệm cận mức trần này để đáp ứng nhu cầu tín dụng đang tăng mạnh, đặc biệt từ gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Tuy nhiên, trong xu thế siết lại chính sách tiền tệ, giảm tốc độ cung tiền như nói ở trên trong một nỗ lực giảm áp lực lạm phát và mất giá tiền đồng, thật khó để thấy NHNN sẽ nới hạn mức tăng trưởng tín dụng chung cho hệ thống ngân hàng trong nửa cuối năm nay, bởi điều này đồng nghĩa với việc đảo ngược những gì mà NHNN đang làm!      

Với từng ngân hàng riêng lẻ, room tín dụng có thể được tinh chỉnh lên xuống ở một chừng mực nào đó nhưng tính trung bình vẫn phải đảm bảo ra được một con số cho toàn hệ thống ngân hàng không được vượt quá quỹ đạo của việc siết lại cung tiền đang diễn ra, tức là một tốc độ tăng trưởng M2 khiêm tốn hơn trong phần còn lại của năm nay.

Nhưng sẽ là khó chấp nhận với những ngân hàng vẫn còn room tín dụng (được cấp từ đầu năm) nhưng lại bị NHNN cắt đi để dành chỗ cho các ngân hàng khác đã dùng hết hoặc sắp hết room này. Thế nên tình huống “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra” này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, chừng nào xu hướng giảm tốc M2 trong các tháng qua vẫn tiếp tục.

Trên thực tế, sẽ có nhiều trường hợp một số ngân hàng không dùng hết room tín dụng trong thời gian còn lại của năm, đồng thời sẽ có một số khác “vô tình” vi phạm, tức cho vay quá mức được phép, như vẫn từng xảy ra. Kết quả là room tín dụng chung của hệ thống không nhất thiết bị phá vỡ (ở mức độ lớn).

Điều may mắn cho tất cả các bên là NHNN không công khai các tính toán cụ thể về room tín dụng cho từng ngân hàng cũng như tình hình thực hiện room tín dụng của từng ngân hàng nên các sự vi phạm nếu có thì cũng chỉ người trong cuộc biết mà thôi.

------

(1) https://nld.com.vn/kinh-te/vi-sao-lai-suat-tien-gui-day-song-20220710145810348.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).