Sunday 9 October 2022

Có “bình ổn” được lãi suất cho vay? (Bài đăng trên KTSG, 9/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/co-binh-on-duoc-lai-suat-cho-vay/

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã cho biết các giải pháp ‘bình ổn’ lãi suất cho vay của mình sau khi NHNN nâng trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn (1). Các giải pháp này gồm giữ nguyên trần lãi suất cho vay, vận động các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục rà soát để tiết giảm các chi phí hoạt động, qua đó tạo điều kiện về mặt tài chính để giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay.

Trần lãi suất cho vay mà NHNN nêu ở đây chính là mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa cho 5 lĩnh vực ưu tiên theo quy định tại khoản 2 điều 13 Thông tư 39/2016 của NHNN. Lần quy định trần lãi suất gần đây nhất có hiệu lực từ ngày 1/10/2020, với mức trần là 4,5%/năm. Theo tuyên bố của NHNN như trên thì mức trần 4,5% này sẽ tiếp tục có hiệu lực. Cần biết thêm là cho vay các lĩnh vực ưu tiên, theo ước tính của một số tổ chức, chỉ chiếm từ 20% đến 25% tín dụng toàn hệ thống ngân hàng.

Thông thường, trần lãi suất cho vay chỉ được điều chỉnh khi trần lãi suất huy động được điều chỉnh để đảm bảo không làm khó các TCTD (giảm thu nhập của họ). Nhưng trong lần điều chỉnh trần mới nhất này, đã có sự lệch pha khi chỉ có trần lãi suất huy động được điều chỉnh tăng lên, còn trần lãi suất cho vay thì được giữ nguyên.

Lưu ý rằng TCTD không bị bắt buộc (không bị NHNN chỉ định) cho vay với lãi suất bằng hoặc thấp hơn trần lãi suất cho vay. Nếu thấy không có lợi, họ có toàn quyền từ chối cho vay, dù doanh nghiệp muốn vay là thuộc 5 lĩnh vực ưu tiên. Ưu tiên ở đây là từ góc độ của NHNN, Chính phủ, chứ không phải là của TCTD.     

Do đó, quyết định khống chế trần lãi suất cho vay trong khi nâng trần lãi suất tiền gửi (là điều làm tăng chi phí cho TCTD) sẽ dẫn đến hai hậu quả, TCTD thu hẹp cho vay (ngắn hạn, cho các lĩnh vực ưu tiên), và/hoặc TCTD “lách luật” bằng cách áp dụng các loại phí nếu doanh nghiệp quyết vay cho bằng được.

Hai hậu quả này dẫn đến hậu quả khác: Chủ trương bình ổn lãi suất cho vay không thành hiện thực, và/hoặc tín dụng càng bị siết chặt hơn, đặc biệt đối với các lĩnh vực ưu tiên, đi ngược lại ý đồ của NHNN.

Để ngăn chặn, khắc phục các hậu quả trên, NHNN phải có và thi hành các công cụ “khuyến khích” TCTD tăng cường cho vay doanh nghiệp trong các lĩnh vực ưu tiên.

Công cụ khuyến khích đầu tiên là vận động (yêu cầu) TCTD tăng cường cho vay lĩnh vực ưu tiên. Để hợp lý hóa sự vận động này, nó nên/cần được đi kèm với sự vận động TCTD cắt giảm chi phí, là điều mà NHNN đã và đang áp dụng, như nêu ở trên. Tuy nhiên, các sự vận động này chỉ là... vận động, tức không phải cưỡng chế, bắt buộc, nên hiệu quả của chúng vẫn mang tính... hên sui! TCTD dù có cắt giảm được chi phí thì cũng không dại gì tự giảm lãi suất cho vay, trừ khi bắt buộc phải làm vậy.

Nên NHNN cần phải áp dụng công cụ mang tính cưỡng chế hơn. Nhìn đi nhìn lại, hiện NHNN chỉ có công cụ đang áp dụng và có thể tiếp tục tăng cường triển khai là hạn mức tăng trưởng (“room”) tín dụng. TCTD nào “cứng cổ” không chịu cho vay các lĩnh vực ưu tiên sẽ bị áp room thấp. Tuy nhiên, room cho từng TCTD mới được NHNN điều chỉnh trong tháng trước. Kể cả khi NHNN tiến hành một đợt điều chỉnh nữa từ nay đến cuối năm thì mức độ điều chỉnh (tăng room), nếu có, sẽ không đáng kể (bởi bị khống chế bởi room tín dụng chung của cả nền kinh tế) để các TCTD đánh đổi lợi ích trông thấy được (không cho vay để không bị thiệt hại) lấy lợi ích mù mờ (được tăng room).

Một công cụ khuyến khích mang tính... hiền hòa hơn là NHNN cho vay TCTD với lãi suất ưu đãi để họ có nguồn vốn rẻ tăng cường cho vay lĩnh vực ưu tiên. Khả năng này là có nhưng lại vấp phải rào cản là chủ trương thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát và ổn định tỷ giá. Nên nếu được áp dụng thì quy mô các gói cho vay ưu đãi với nguồn vốn rẻ từ NHNN này sẽ cũng chỉ dừng lại ở mức không đáng kể nếu NHNN không muốn TCTD phải cắt giảm cho vay các lĩnh vực khác để đảm bảo tăng trưởng tín dụng không vượt quá room được cấp.          

Ngoài các vấn đề liên quan đến cho vay lĩnh vực ưu tiên, thông thường, để đáp ứng lời vận động của NHNN về giảm lãi suất cho vay, một số TCTD, tự nguyện hay không, cũng sẽ đưa ra các gói cho vay với lãi suất ưu đãi cỡ vài nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, có vài điểm cần lưu ý ở đây. Cụ thể, thường chỉ có một vài TCTD tung ra các gói cho vay ưu đãi này. Nếu có thì phần lớn là dành cho doanh nghiệp trong 5 lĩnh vực ưu tiên, để rồi TCTD phải thu hẹp cho vay các lĩnh vực còn lại (lớn hơn nhiều so với 5 lĩnh vực ưu tiên) nhằm bảo toàn vốn và/hoặc tuân thủ room tín dụng. Quan trọng không kém là không thể loại trừ trường hợp TCTD công bố gói cho vay ưu đãi chủ yếu để lấy “tiếng thơm” chứ không thực tâm, ráo riết thực hiện. Bởi vậy, các gói cho vay ưu đãi này chắc chắn không có tác động đáng kể đến mặt bằng lãi suất cho vay.

Tóm lại, do các hạn chế về động cơ, nguồn lực, công cụ thực thi, room tín dụng, đường hướng chính sách tiền tệ, đối tượng/phạm vi tác động... nên lãi suất cho vay chắc chắn sẽ tăng lên khi lãi suất huy động tăng lên. Nói cách khác, hiệu quả của việc ‘bình ổn’ lãi suất cũng sẽ chỉ tương tự như hiệu quả của các cuộc ‘bình ổn’ giá cả các loại hàng hóa nói chung mà thường kết thúc trong sự tăng giá không thể cưỡng lại theo đà tăng giá chung của hàng hóa, dịch vụ (tức lạm phát).

------

https://cafef.vn/lanh-dao-nhnn-noi-gi-ve-viec-binh-on-lai-suat-cho-vay-sau-khi-tang-tran-lai-suat-huy-dong-20221001210208407.chn 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).