Thursday 13 October 2022

Nên tin ai? (Bài đăng trên KTSG số 40/2022)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-40-2022-thi-truong-chung-chi-carbon/

Mới đây, Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý 3/2022. Theo đó, có 38,6% số doanh nghiệp đánh giá quý 3 tốt hơn so với quý 2/2022; 36% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 25,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn (1).

Cũng theo TCTK, kết quả khảo sát còn cho thấy, đa số doanh nghiệp đều cho thấy sự lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý cuối cùng của năm nay. Cụ thể, trong quý 4/2022, các doanh nghiệp dự kiến tình hình kinh doanh còn tốt hơn so với quý 3/2022 khi có tới 48,7% doanh nghiệp đánh giá tích cực, 33,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và chỉ có 17,4% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Như vậy, có đến hơn 82% doanh nghiệp cho thấy sự lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý 4.

Trong khi đó, tuy không phải là một cuộc khảo sát đúng nghĩa như của TCTK nêu trên, Bộ Tài chính thông qua công tác thu thuế cũng đã nắm bắt được tình hình sức khỏe của doanh nghiệp, ở phạm vi rộng hơn chứ không bó hẹp trong một số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được chọn khảo sát bởi TCTK (2).

Theo nắm bắt của Bộ Tài chính thì một bức tranh về doanh nghiệp rất khác với của TCTK đã hiện ra, với từ khóa “khó khăn” được lặp lại nhiều lần. Theo đó, thu thuế (từ doanh nghiệp) có xu hướng giảm kể từ tháng 6, thể hiện khó khăn của doanh nghiệp như chi phí đầu vào tăng cao, thị trường đang thu hẹp, dù kim ngạch xuất nhập khẩu tăng cao nhưng nhiều doanh nghiệp giảm đơn hàng.

Bộ Tài chính cũng chỉ ra: “Nhìn vào từng lĩnh vực như bất động sản, thép, gỗ, xi măng, may mặc… đều có khó khăn. Chẳng hạn, với ngành gỗ, thống kê của cơ quan thuế thì 73% doanh nghiệp có đơn hàng giảm, thậm chí có doanh nghiệp bị giảm 30-90% đơn hàng. Hay ngành may mặc, hiện nhiều hoạt động cầm chừng chỉ đạt 50-70% công suất. Ngành thép cũng tương tự, khi quý 3 giảm 13 lần so với đầu năm khiến doanh nghiệp thép rất khó khăn. Lắp ráp ô tô chỉ bằng 68% so với cùng kỳ”.

Nói cách khác, tình hình và kết quả kinh doanh chung của các doanh nghiệp có xu hướng xấu đi kể từ tháng 6. Đây là xu hướng trái ngược với xu hướng mà cuộc khảo sát doanh nghiệp chế biến, chế tạo của TCTK cho thấy.

Cả TCTK lẫn cơ quan thuế, Bộ Tài chính đều là cơ quan chức năng nhà nước, nên đều khả tín như nhau. Tuy nhiên, do các cuộc khảo sát, tìm hiểu về doanh nghiệp của họ trái ngược nhau nên phải có một bên đúng, còn bên kia thì sai.   

Từ góc độ người ngoài cuộc nhìn vào, cuộc khảo sát của TCTK được thiết kế như thế nào, thực hiện ra làm sao thì chỉ có TCTK mới biết. Tương tự, thống kê của cơ quan thuế tiến hành ở đâu, với ai, bằng phương pháp nào thì cũng chỉ có họ biết. Do đó, câu hỏi ai đúng, ai sai chỉ có thể được trả lời bởi những người trong cuộc

Nhưng trước khi nhường câu trả lời cho TCTK và cơ quan thuế/Bộ Tài chính, xin được nêu mấy nhận định sau.

Về động cơ “lái” kết quả như công bố, cơ quan thuế/Bộ Tài chính có lẽ có lý do mạnh hơn TCTK. Cần lưu ý rằng kết quả thu thuế có xu hướng giảm dần là điều không tốt cho cơ quan thuế từ góc độ chức năng, nhiệm vụ của họ, đặc biệt trong bối cảnh ngành thuế vẫn còn nguyên đó vấn đề thất thu, nợ đọng thuế tồn tại từ năm này kéo dài qua năm khác. Do vậy, không gì có sức thuyết phục hơn cho vấn đề thu thuế đang sụt giảm là lý do khách quan rằng doanh nghiệp đã gặp khó khăn ngay từ thời điểm mà thu thuế bắt đầu sụt giảm.

Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa là cuộc khảo sát của TCTK là phản ánh đúng tình hình doanh nghiệp. Một số điểm bất thường/bất ngờ toát lên từ kết quả khảo sát, bao gồm chỉ có 4,6% doanh nghiệp được khảo sát cho biết không có khả năng tiếp cận nguồn vốn vay như là một yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý 3/2022. Điều này dường như không đúng lắm với thực tế khi nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, luôn kêu cứu về chuyện tiếp cận vốn vay, nhất là trong quý 3 khi hạn mức tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng chưa được tăng, ngân hàng siết cho vay, lãi suất thì tăng mạnh.

Ở khía cạnh khác, chỉ có 23,5% doanh nghiệp được khảo sát cho biết lãi suất vay vốn cao làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh quý 3. Đây cũng có thể coi là một điều khá bất ngờ bởi quý 3 là quý mà lãi suất huy động đã tăng đáng kể, chắc chắn kéo theo lãi suất cho vay. Bình thường thì cũng đã luôn nghe thấy các doanh nghiệp phàn nàn chuyện tiếp cận vốn vay khó và/hoặc lãi suất vay cao. Nay xem ra kết quả thực tế có vẻ khá dễ chịu, chứng tỏ hoặc TCTK sai, hoặc doanh nghiệp... (nói) sai!  

Nếu đối tượng cuộc khảo sát của TCTK phần lớn là doanh nghiệp lớn (có ưu thế tiếp cận vốn ngân hàng, vay nước ngoài, và với lãi suất dễ chịu...) thì điều này có thể hiểu được. Nhưng nếu vậy thì tính đại diện của cuộc khảo sát này lại là một vấn đề, và do đó, kết quả khảo sát này không nhất thiết phản ánh đúng thực trạng doanh nghiệp, thực trạng nền kinh tế trong quý 3.  

-------

(1)    https://cafef.vn/hon-80-doanh-nghiep-lac-quan-ve-tinh-hinh-san-xuat-kinh-doanh-2022100110135707.chn

https://baodautu.vn/thu-truong-bo-tai-chinh-thu-ngan-sach-co-dau-hieu-bat-dau-sut-giam-d174523.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).