Thursday 10 October 2013

Đừng để bị các con số điều khiển (Bài đăng trên TBKTSG ngày 10/10/2013, bản gốc)


Thông thường, các kế hoạch phát triển kinh tế được các cơ quan chức năng của Chính phủ đặt ra cho một kỳ nào đó, có thể là cho 1 năm sau,  3 năm sau, hoặc 5 năm sau, với những chỉ tiêu cụ thể, ví dụ như tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, tăng trưởng tín dụng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương mại, nợ nước ngoài, xuất khẩu, nhập khẩu v.v... trong khoảng từ bao nhiêu đến bao nhiêu.

Các chỉ tiêu trên thường được Chính phủ trình trước Quốc hội để xin phê chuẩn. Quốc hội sau một số phiên họp và thảo luận sẽ phê chuẩn hoặc yêu cầu Chính phủ sửa đổi một số chỉ tiêu mà Quốc hội cho rằng là thích hợp hơn. Và khi đã được phê chuẩn thì các con số chỉ tiêu phát triển kinh tế đó gần như trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Việc hoàn thành như thế nào các chỉ tiêu này cũng là thước đo đánh giá chất lượng và năng lực hoạt động của Chính phủ. Bởi vậy, không hiếm khi trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu do chính mình đề ra, Chính phủ vấp phải những khó khăn chủ quan và khách quan để rồi không hoàn thành được kế hoạch và buộc phải xin Quốc hội cho điều chỉnh (một số) các chỉ tiêu này.

Điều đáng nói trong quy trình trên là việc đưa ra được các con số chỉ tiêu kế hoạch. Khi lập kế hoạch, các cơ quan chức năng của Chính phủ dựa vào các số liệu kinh tế vĩ mô và vi mô hiện tại, và có thể áp dụng một số mô hình kinh tế lượng, để tính toán và đưa ra được một số chỉ tiêu kinh tế cần thiết. Cũng không hiếm khi các chỉ tiêu kinh tế có yếu tố duy ý chí, định tính, căn cứ vào các nghị quyết và quyết tâm chính trị nhiều hơn là các tính toán khoa học.

Chẳng hạn, có một luồng quan niệm khá phổ biến là tăng trưởng GDP phải đạt khoảng 7%/năm trở lên thì mới “đảm bảo” an sinh xã hội, việc làm và thu hẹp khoảng cách về thu nhập đầu người với các nước láng giềng. Bởi vậy, các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ngắn và trung hạn đều được xây dựng xoay quanh con số này và đã không hiếm khi đẩy nền kinh tế vào trạng thái nóng quá mức vì Ngân hàng Nhà nước buộc phải bơm tiền ra cấp tập còn Chính phủ thì cũng gia tăng vay mượn để “thúc” cho nền kinh tế đạt bằng được tốc độ tăng trưởng “đảm bảo” này.

Vào những thời kỳ khó khăn, người ta hiểu rằng không thể “thúc” nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và nguy hiểm như trên nữa nên buộc phải hạ chỉ tiêu tăng trưởng và một loạt chỉ tiêu khác có liên quan. Điều đáng lưu ý là việc điều chỉnh các chỉ tiêu đôi khi diễn ra dựa trên các phép tính số học đơn giản. Chẳng hạn, tăng trưởng GDP mấy năm trước trong khoảng 6%-7%/năm mà tốc độ tăng trưởng tín dụng đều trên 20%/năm, thậm chí trên 30%, thế nên người ta suy ra rằng để đạt tốc độ tăng trưởng  khoảng 5,5% như 1, 2 năm nay thì tốc độ tăng trưởng tín dụng phải tối thiểu phải đạt khoảng 20%. Nhưng rồi khi người ta nhận ra rằng con số này trở nên cao quá mức thì có cấp có thẩm quyền lại nói rằng tăng trưởng tín dụng phải là 15%, hoặc sau đó sửa xuống nữa còn 12%.

Dù là con số nào chăng nữa nhưng các con số khác nhau, liên tục được điều chỉnh, chứng tỏ 2 điều quan trọng. Thứ nhất, không có một cơ sở chắc chắn nào cho việc hình thành các chỉ tiêu kế hoạch, và việc các chỉ tiêu kế hoạch xa rời thực tế là điều phổ biến hơn, có thể tiên lượng được. Đôi khi, chỉ vì một biến cố ngoại lai bất ngờ xảy đến (ví dụ khủng hoảng tài chính), toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch cho dù trước đó có vẻ rất thực tế lại trở nên phi thực tế. Thứ hai, những nơi phê chuẩn các kế hoạch, như Quốc hội, lại càng không có một cơ sở chắc chắn nào làm chỗ dựa cho các quyết định của mình (duyệt hay không duyệt các chỉ tiêu kế hoạch do Chính phủ trình ra), ít nhất vì Quốc hội không nắm được nhiều thông tin, không có một lực lượng chuyên gia và công cụ trong công tác lập kế hoạch như của Chính phủ.

Trong bối cảnh đều có những bất cập từ cả 2 phía, phía xây dựng và đệ trình các chỉ tiêu kế hoạch (Chính phủ) và phía phê chuẩn các chỉ tiêu kế hoạch (Quốc hội), việc Quốc hội ép, nếu có, Chính phủ phải thực hiện cho được những chỉ tiêu kế hoạch của mình (Chính phủ), và/hoặc việc Chính phủ tự nguyện dốc hết sức, bằng mọi giá thực hiện cho bằng được các chỉ tiêu kế hoạch do chính mình đề ra thường sẽ không mang lại những kết quả thực tế tốt đẹp. Vì khi đó nền kinh tế được điều khiển bằng những “quyết tâm”, “quyết liệt”, “toàn hệ thống chính trị vào cuộc” v.v... chứ không phải bằng những công cụ và chính sách hợp với các quy luật kinh tế thị trường.

Tiếc rằng, nhiều người dường như không thấy được vấn đề và vẫn cứ loay hoay với việc điều chỉnh các chỉ tiêu kế hoạch đang diễn ra, ví dụ như việc xin nới trần thâm hụt ngân sách. Chắc chắn sẽ đến một lúc nào đó người ta sẽ phải nhận ra rằng nếu cứ để những con số vô tri, vô giác và vô nghĩa đó điều khiển mình thì nền kinh tế còn mãi sa lầy trong cái vòng luẩn quẩn bất ổn và tụt hậu.

3 comments:

  1. Em được thì được cái nhiều chuyện (gần như bác), nhưng khi mọi người bàn việc gì đông quá thì em lại đứng ngoại cuộc (tọa sơn, quan hổ cãi!). Mấy bữa nay bác post bài lên, thấy ít members tham gia, em ngứa mồm nói tí chuyện cùng bác.

    Thật ra về các con số kinh tế vĩ mô được thống kê, tổng hợp, phân tích, và công bố trước giờ ở VN từ quá khứ đến hiện tại & dự báo tương lai càng cho thấy một bức tranh mờ ảo về nền kinh tế thực tại. Như bác Ngọc cùng các bác chuyên gia khác (uy tín) khác cũng đã đề cặp không chỉ ở bài này mà còn ngụ ý trong các bài khác đã post trước đó về con số vĩ mô VN không rõ ràng, mập mờ, làm cho chúng ta thiếu cái nhìn xác thực về kinh tế VN và việc lập kế hoạch cũng như thực thi gặp nhiều khó khăn.
    Có lẽ do CP (không phải thiếu chuyên gia) mà do bị sức ép chính trị, công thêm thông tin vĩ mô không chính xác, với sự nhiệt tình (hăng hái) thiếu hiểu biết của cấp lãnh đạo cho nên đưa ra những con số kế hoạch trời ơi, rồi thực hiện không được, xin điều chỉnh, rồi lại lập kế hoạch mới, rồi lại điều chỉnh,...

    Em nói hơi dài một chút, nhân đây em cũng gửi lời xin bái phục ông bộ trưởng bộ tài chính mới (gốc ở kiểm toán NN mà ra) gần đây có một sáng kiến để cắt giảm chi tiêu thường xuyên nhằm giảm áp lực chi ngân sách NN là đề nghị hạ mức lương căn bản của viên chức NN và những người hưởng lương từ ngân sách NN xuống 100.000 đ (từ 1.150.000 đ xuống 1.050.000 đ), trong khi họ mới được ban chút ân huệ từ NN kể từ đầu tháng 7/2013 là tăng 100.000 đ.
    Theo em nghĩ, thiếu gì cách cắt giảm chi tiêu mà họ k đề xuất, ai lại đi đè đầu thằng làm công ăn lương vốn dĩ thu nhập ở gần đáy xã hội rồi (trừ mấy quan chức ra). Điều đó chứng tỏ một điều là vị bộ trưởng trên thiếu tâm và tầm hết sức. Ước gì bộ trưởng Tài chính của Anh quốc qua VN chỉ giáo thêm cho.

    Có gì k phải bác bỏ quá cho em.

    ReplyDelete
  2. Đồng chí cứ khiêm tốn. Đồng chí nói phải cả đấy chứ.

    Thông điệp tớ muốn nói nhưng chưa nói hết được, nói chính xác được trong bài này là sự tự nguyện (hay ngu muội? hay cố tình?) để các con số trời ơi đất hỡi nó hành và buộc phải chạy theo nó. Tỷ như chuyện đồng chí Đam nói phải tăng đầu tư chính phủ (tăng thâm hụt) để đạt mức tổng đầu tư cần thiết. Rõ ràng là chẳng có một cái quan hệ tỷ lệ nào đó để biết thế nào là đủ, là cần, nhưng đồng chí này thấy cần phải làm cái gì đó, và cần phải dựa vào một con số nào đó để cho có cơ sở.

    Về chuyện cắt lương. Tớ nghĩ thế có khi lại hay vì nó buộc một lượng công chức tự nguyện thôi việc vì không sống nổi với lương. Chỉ còn lại những thằng có bổng lộc (từ trước đến nay vẫn thế) và những thằng không chui vào đâu được. Thế thì biên chế sẽ giảm và/hoặc chi phí cũng sẽ giảm. Mức lương thấp càng không hấp dẫn được bọn có trình độ một chút, nên chính phủ xem ra tuy có thể không hiệu quả hơn nhưng cũng không tệ hơn vì từ trước đến nay đã tệ hết mức rồi, không thể tệ hơn được.

    ReplyDelete
  3. Có lẽ bác nói đúng!

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).