Thông thường, các
kế hoạch phát triển kinh tế được các cơ quan chức năng của Chính phủ đặt ra cho
một kỳ nào đó, có thể là cho 1 năm sau,
3 năm sau, hoặc 5 năm sau, với những chỉ tiêu cụ thể, ví dụ như tăng trưởng
GDP, lạm phát, lãi suất, tăng trưởng tín dụng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt
thương mại, nợ nước ngoài, xuất khẩu, nhập khẩu v.v... trong khoảng từ bao
nhiêu đến bao nhiêu.
Các chỉ tiêu trên
thường được Chính phủ trình trước Quốc hội để xin phê chuẩn. Quốc hội sau một số
phiên họp và thảo luận sẽ phê chuẩn hoặc yêu cầu Chính phủ sửa đổi một số chỉ
tiêu mà Quốc hội cho rằng là thích hợp hơn. Và khi đã được phê chuẩn thì các
con số chỉ tiêu phát triển kinh tế đó gần như trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Việc
hoàn thành như thế nào các chỉ tiêu này cũng là thước đo đánh giá chất lượng và
năng lực hoạt động của Chính phủ. Bởi vậy, không hiếm khi trong quá trình thực
hiện các chỉ tiêu do chính mình đề ra, Chính phủ vấp phải những khó khăn chủ
quan và khách quan để rồi không hoàn thành được kế hoạch và buộc phải xin Quốc
hội cho điều chỉnh (một số) các chỉ tiêu này.
Điều đáng nói
trong quy trình trên là việc đưa ra được các con số chỉ tiêu kế hoạch. Khi lập
kế hoạch, các cơ quan chức năng của Chính phủ dựa vào các số liệu kinh tế vĩ mô
và vi mô hiện tại, và có thể áp dụng một số mô hình kinh tế lượng, để tính toán
và đưa ra được một số chỉ tiêu kinh tế cần thiết. Cũng không hiếm khi các chỉ
tiêu kinh tế có yếu tố duy ý chí, định tính, căn cứ vào các nghị quyết và quyết
tâm chính trị nhiều hơn là các tính toán khoa học.
Chẳng hạn, có một
luồng quan niệm khá phổ biến là tăng trưởng GDP phải đạt khoảng 7%/năm trở lên
thì mới “đảm bảo” an sinh xã hội, việc làm và thu hẹp khoảng cách về thu nhập đầu
người với các nước láng giềng. Bởi vậy, các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
ngắn và trung hạn đều được xây dựng xoay quanh con số này và đã không hiếm khi
đẩy nền kinh tế vào trạng thái nóng quá mức vì Ngân hàng Nhà nước buộc phải bơm
tiền ra cấp tập còn Chính phủ thì cũng gia tăng vay mượn để “thúc” cho nền kinh
tế đạt bằng được tốc độ tăng trưởng “đảm bảo” này.
Vào những thời kỳ
khó khăn, người ta hiểu rằng không thể “thúc” nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
cao và nguy hiểm như trên nữa nên buộc phải hạ chỉ tiêu tăng trưởng và một loạt
chỉ tiêu khác có liên quan. Điều đáng lưu ý là việc điều chỉnh các chỉ tiêu đôi
khi diễn ra dựa trên các phép tính số học đơn giản. Chẳng hạn, tăng trưởng GDP
mấy năm trước trong khoảng 6%-7%/năm mà tốc độ tăng trưởng tín dụng đều trên
20%/năm, thậm chí trên 30%, thế nên người ta suy ra rằng để đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 5,5% như 1, 2 năm nay thì tốc độ tăng
trưởng tín dụng phải tối thiểu phải đạt khoảng 20%. Nhưng rồi khi người ta nhận
ra rằng con số này trở nên cao quá mức thì có cấp có thẩm quyền lại nói rằng
tăng trưởng tín dụng phải là 15%, hoặc sau đó sửa xuống nữa còn 12%.
Dù là con số nào
chăng nữa nhưng các con số khác nhau, liên tục được điều chỉnh, chứng tỏ 2 điều
quan trọng. Thứ nhất, không có một cơ sở chắc chắn nào cho việc hình thành các
chỉ tiêu kế hoạch, và việc các chỉ tiêu kế hoạch xa rời thực tế là điều phổ biến
hơn, có thể tiên lượng được. Đôi khi, chỉ vì một biến cố ngoại lai bất ngờ xảy
đến (ví dụ khủng hoảng tài chính), toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch cho dù trước
đó có vẻ rất thực tế lại trở nên phi thực tế. Thứ hai, những nơi phê chuẩn các
kế hoạch, như Quốc hội, lại càng không có một cơ sở chắc chắn nào làm chỗ dựa
cho các quyết định của mình (duyệt hay không duyệt các chỉ tiêu kế hoạch do
Chính phủ trình ra), ít nhất vì Quốc hội không nắm được nhiều thông tin, không
có một lực lượng chuyên gia và công cụ trong công tác lập kế hoạch như của
Chính phủ.
Trong bối cảnh đều
có những bất cập từ cả 2 phía, phía xây dựng và đệ trình các chỉ tiêu kế hoạch
(Chính phủ) và phía phê chuẩn các chỉ tiêu kế hoạch (Quốc hội), việc Quốc hội
ép, nếu có, Chính phủ phải thực hiện cho được những chỉ tiêu kế hoạch của mình
(Chính phủ), và/hoặc việc Chính phủ tự nguyện dốc hết sức, bằng mọi giá thực hiện
cho bằng được các chỉ tiêu kế hoạch do chính mình đề ra thường sẽ không mang lại
những kết quả thực tế tốt đẹp. Vì khi đó nền kinh tế được điều khiển bằng những
“quyết tâm”, “quyết liệt”, “toàn hệ thống chính trị vào cuộc” v.v... chứ không
phải bằng những công cụ và chính sách hợp với các quy luật kinh tế thị trường.
Tiếc rằng, nhiều
người dường như không thấy được vấn đề và vẫn cứ loay hoay với việc điều chỉnh
các chỉ tiêu kế hoạch đang diễn ra, ví dụ như việc xin nới trần thâm hụt ngân
sách. Chắc chắn sẽ đến một lúc nào đó người ta sẽ phải nhận ra rằng nếu cứ để
những con số vô tri, vô giác và vô nghĩa đó điều khiển mình thì nền kinh tế còn
mãi sa lầy trong cái vòng luẩn quẩn bất ổn và tụt hậu.
Em được thì được cái nhiều chuyện (gần như bác), nhưng khi mọi người bàn việc gì đông quá thì em lại đứng ngoại cuộc (tọa sơn, quan hổ cãi!). Mấy bữa nay bác post bài lên, thấy ít members tham gia, em ngứa mồm nói tí chuyện cùng bác.
ReplyDeleteThật ra về các con số kinh tế vĩ mô được thống kê, tổng hợp, phân tích, và công bố trước giờ ở VN từ quá khứ đến hiện tại & dự báo tương lai càng cho thấy một bức tranh mờ ảo về nền kinh tế thực tại. Như bác Ngọc cùng các bác chuyên gia khác (uy tín) khác cũng đã đề cặp không chỉ ở bài này mà còn ngụ ý trong các bài khác đã post trước đó về con số vĩ mô VN không rõ ràng, mập mờ, làm cho chúng ta thiếu cái nhìn xác thực về kinh tế VN và việc lập kế hoạch cũng như thực thi gặp nhiều khó khăn.
Có lẽ do CP (không phải thiếu chuyên gia) mà do bị sức ép chính trị, công thêm thông tin vĩ mô không chính xác, với sự nhiệt tình (hăng hái) thiếu hiểu biết của cấp lãnh đạo cho nên đưa ra những con số kế hoạch trời ơi, rồi thực hiện không được, xin điều chỉnh, rồi lại lập kế hoạch mới, rồi lại điều chỉnh,...
Em nói hơi dài một chút, nhân đây em cũng gửi lời xin bái phục ông bộ trưởng bộ tài chính mới (gốc ở kiểm toán NN mà ra) gần đây có một sáng kiến để cắt giảm chi tiêu thường xuyên nhằm giảm áp lực chi ngân sách NN là đề nghị hạ mức lương căn bản của viên chức NN và những người hưởng lương từ ngân sách NN xuống 100.000 đ (từ 1.150.000 đ xuống 1.050.000 đ), trong khi họ mới được ban chút ân huệ từ NN kể từ đầu tháng 7/2013 là tăng 100.000 đ.
Theo em nghĩ, thiếu gì cách cắt giảm chi tiêu mà họ k đề xuất, ai lại đi đè đầu thằng làm công ăn lương vốn dĩ thu nhập ở gần đáy xã hội rồi (trừ mấy quan chức ra). Điều đó chứng tỏ một điều là vị bộ trưởng trên thiếu tâm và tầm hết sức. Ước gì bộ trưởng Tài chính của Anh quốc qua VN chỉ giáo thêm cho.
Có gì k phải bác bỏ quá cho em.
Đồng chí cứ khiêm tốn. Đồng chí nói phải cả đấy chứ.
ReplyDeleteThông điệp tớ muốn nói nhưng chưa nói hết được, nói chính xác được trong bài này là sự tự nguyện (hay ngu muội? hay cố tình?) để các con số trời ơi đất hỡi nó hành và buộc phải chạy theo nó. Tỷ như chuyện đồng chí Đam nói phải tăng đầu tư chính phủ (tăng thâm hụt) để đạt mức tổng đầu tư cần thiết. Rõ ràng là chẳng có một cái quan hệ tỷ lệ nào đó để biết thế nào là đủ, là cần, nhưng đồng chí này thấy cần phải làm cái gì đó, và cần phải dựa vào một con số nào đó để cho có cơ sở.
Về chuyện cắt lương. Tớ nghĩ thế có khi lại hay vì nó buộc một lượng công chức tự nguyện thôi việc vì không sống nổi với lương. Chỉ còn lại những thằng có bổng lộc (từ trước đến nay vẫn thế) và những thằng không chui vào đâu được. Thế thì biên chế sẽ giảm và/hoặc chi phí cũng sẽ giảm. Mức lương thấp càng không hấp dẫn được bọn có trình độ một chút, nên chính phủ xem ra tuy có thể không hiệu quả hơn nhưng cũng không tệ hơn vì từ trước đến nay đã tệ hết mức rồi, không thể tệ hơn được.
Có lẽ bác nói đúng!
ReplyDelete