Thursday 9 April 2015

Triển vọng xử lý nợ xấu nhìn từ các động thái pháp lý liên quan đến VAMC (Bài đăng trên CafeF, 9/4/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/trien-vong-xu-ly-no-xau-nhin-tu-cac-dong-thai-phap-ly-lien-quan-den-vamc-2015040921525585.chn

Công ty quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã hoạt động từ tháng 7/2013 và đến nay đã mua lại khoảng 123.000 tỷ đồng nợ xấu thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt cho các ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình hoạt động của VAMC cho thấy mô hình hoạt động của VAMC chưa mang lại nhiều hiệu quả trong việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam.

Lý do chủ yếu là vì VAMC được thiết kế để xử lý nợ xấu theo kiểu “tay không bắt giặc” (đổi nợ xấu lấy trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành). Trong khi đó, chức năng mua nợ xấu theo giá trị thị trường bằng “tiền tươi thóc thật”, một chức năng chính của nhiều tổ chức xử lý nợ xấu (AMC) khác trên thế giới, lại chỉ là chức năng thứ yếu của VAMC vì VAMC chỉ có 500 tỷ đồng vốn điều lệ.

Để “chữa cháy” cho mô hình VAMC từng được ca ngợi là “sáng tạo” của Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chính thức đề nghị và đã được chính phủ chấp nhận việc tăng vốn điều lệ của VAMC từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng, theo Nghị định 34 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 53 về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC.

Nghị định 34 cũng cho VAMC cơ chế đặc thù với việc phát hành trái phiếu đặc biệt để mua nợ theo giá trị thị trường. Về tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua, nếu không có thỏa thuận, công ty sẽ được phép bán đấu giá; cơ quan có thẩm quyền sẽ sẽ có trách nhiệm hướng dẫn cho nhà đầu tư, người trúng đấu giá trên đất của dự án đầu tư nhằm thúc đẩy hoạt động thanh lý tài sản đảm bảo.

Có thể thấy, Nghị định 34 đã mở đường cho VAMC trong việc mua nợ xấu bằng tiền, chứ không phải trái phiếu đặc biệt nhưng triển vọng xử lý nợ xấu không vì thế mà sáng sủa hơn lên nhiều. Mức vốn điều lệ mới tuy đã tăng gấp 4 lần so với mức cũ nhưng con số 2.000 tỷ đồng vẫn là quá nhỏ nhoi so với khối lượng nợ xấu cần xử lý trong hệ thống ngân hàng lớn hơn thế hàng trăm lần. Do đó, VAMC vẫn cứ phải dựa vào công cụ chính của nó là trái phiếu đặc biệt để mua lại nợ xấu.

Nhưng với trái phiếu đặc biệt và những vấn đề liên quan đến nó thì, như đã biết, có những yếu tố tiêu cực làm kìm hãm quá trình xử lý nợ xấu. Cụ thể, trái phiếu đặc biệt tạo ra một bất trắc lớn cho người nắm giữ, sở hữu nó là lãi suất và tỷ lệ chiết khấu do NHNN tùy nghi quyết định theo một cách thức không thể đoán định được. Trong khi đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn phải trích lập dự phòng 20% mệnh giá trái phiếu hàng năm, và, vì thế, nợ xấu tuy đã bán cho VAMC, vẫn còn là một gánh nặng lên lợi nhuận của các TCTD.

Ngược lại, VAMC hầu như không phải chịu bất kỳ rủi ro gì trong việc tiếp nhận và xử lý nợ xấu nên tính hiệu quả của VAMC trong việc xử lý nợ xấu mua về này là điều còn bỏ ngỏ, mặc dù VAMC luôn khẳng định là đã và đang nỗ lực xử lý, bán lại các khoản nợ xấu mua về. Hơn nữa, VAMC có xu hướng chỉ mua có tính lựa chọn một số khoản nợ xấu “tốt” (dễ bán lại, thanh lý) chứ không phải là mua đổ đống tất cả các khoản nợ xấu từ các TCTD nên càng làm cho tính hữu ích của VAMC mờ nhạt thêm trong con mắt của các TCTD.

Có lẽ cũng đã hiểu được sự miễn cưỡng của các TCTD khi phải bán nợ xấu cho VAMC , tin tức cho biết NHNN mới đây đã yêu cầu các TCTD phải bán tối thiểu 75% chỉ tiêu nợ xấu được giao cho VAMC đến 30/6 (và 100% đến 30/9/2015), nhằm thực hiện mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu về mức 3% đến cuối năm nay.

Giải pháp cưỡng bức bán nợ xấu của NHNN kết hợp với các giải pháp tăng vốn điều lệ và trao cơ chế đặc thù cho VAMC trong việc xử lý nợ xấu nói trên có thể được coi như đã khơi thông thêm một bước nữa cả đầu vào và đầu ra trong quá trình xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, đến đây thì lại có một rủi ro khác phát sinh. Đó là sự “giục tốc bất đạt”.

Với sự thúc ép bán nợ xấu dồn dập cho VAMC, trong khi quy mô nợ xấu (và, do dó, chỉ tiêu xử lý nợ xấu tối thiểu giao cho các TCT) được dự kiến sẽ tăng lên mạnh khi Thông tư 02/2013-TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hiệu lực từ ngày 01/4/2015, sẽ có 3 khả năng xảy ra (riêng rẽ hoặc đồng thời):

​(1) VAMC không đủ năng lực và khả năng để “ôm” về và xử lý hiệu quả một khối lượng nợ xấu khổng lồ và tăng lên đột ngột trong một thời gian ngắn;

(2) Thị trường nợ xấu sẽ bị “ngập lụt” với một nguồn “hàng” khổng lồ tung ra trong một thời gian ngắn, làm tụt giảm giá trị tài sản thế chấp, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đến quyền lợi của các TCTD bán nợ xấu cho VAMC mà còn cho cả thị trường tài sản (bất động sản) nói chung;

(3) Nhịp độ xử lý nợ xấu buộc phải chậm lại để “câu giờ”, chờ đợi thị trường phản ứng tích cực hơn, đồng nghĩa với việc vấn đề nợ xấu về cơ bản sẽ tiếp tục bị “treo” ở đó, không có gì khác biệt đáng kể so với hiện tại, ngoài việc sổ sách của các TCTD chắc chắn sẽ “đẹp” hơn với tỷ lệ nợ xấu thấp hơn (dưới 3% nếu làm đúng như yêu cầu của NHNN).

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).