Năm 2016 đã được
chọn là Năm quốc gia khởi nghiệp, cho thấy chuyện khởi nghiệp đã trở nên quan
trọng và được tôn vinh như thế nào. Tuy vậy, nhìn lại thì chuyện thúc đẩy khởi
nghiệp không phải là chuyện mới, bây giờ mới được đề cập đến. Cách đây hơn 13
năm Chương trình Khởi nghiệp do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)
khởi xướng đã ra đời và đã có nhiều dự án khởi nghiệp nhận được sự hưởng ứng
tích cực từ giới trẻ. Tiếc rằng những hành động nhằm thúc đẩy tinh thần khởi
nghiệp như thế này vẫn là quá ít, quá hạn hẹp ở Việt Nam.
Bởi vậy, việc chọn
năm nay là Năm quốc gia khởi nghiệp là việc rất có ý nghĩa khi đây là một chỉ mốc
cho thấy có sự quan tâm, “vào cuộc” của Chính phủ và các tổ chức, cá nhân liên
đới ở quy mô toàn quốc, trên mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, ở mọi thành phần
xã hội... Tuy nhiên, để tránh việc lặp lại những vấn đề với các chương trình
khác nặng về hình thức mà kết quả mang lại không được bao nhiêu, chương trình
khởi nghiệp quốc gia cần được hậu thuẫn bởi những thay đổi ở tầm vóc và quy mô
quốc gia tương xứng.
Hạn chế lớn nhất
mà nhiều người hay nhắc đến là Việt Nam thiếu một môi trường nuôi dưỡng tinh thần
khởi nghiệp. Nhưng tiếc rằng ví dụ so sánh thường xuyên được nhắc đến lại hầu
như chỉ là một nước duy nhất, Israel, nơi mỗi cá nhân đều có ý thức tự mình muốn
khởi tạo một doanh nghiệp, một lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới, còn cộng đồng
và doanh nghiệp thì luôn có ý thức hỗ trợ thúc đẩy khởi nghiệp. Bởi vậy, nếu
“nhắm” đến mô hình Israel thì e rằng Việt Nam sẽ khó trở thành một ngoại lệ thứ
hai như nước này.
Do đó, một môi
trường nuôi dưỡng tinh thần khởi nghiệp cần phải được hiểu một cách thông dụng
hơn như ở hầu hết các nước tư bản phát triển, nơi mà những ý tưởng sản xuất
kinh doanh mới được thỏa sức phát triển nếu chủ nhân của chúng muốn. Trong môi
trường đó, các luật về bản quyền, sở hữu trí tuệ được thực thi nghiêm túc, tạo
điều kiện cho chủ nhân những ý tưởng mới thấy được tương lai sáng lạn nếu họ
thành công trong việc hiện thực hóa ý tưởng của mình thành sản phẩm cụ thể và
đưa chúng ra được thị trường.
Môi trường nuôi
dưỡng tinh thần khởi nghiệp cũng cần phải bảo đảm cho các cá nhân và tổ chức
tham gia cấp vốn cho các ý tưởng sản xuất và kinh doanh mới được bảo vệ đầy đủ
và thích hợp bởi pháp luật nhằm đảm bảo cho họ gặt hái lợi nhuận khi ý tưởng mới
này được thực hiện, và hạn chế được các hành vi trục lợi gây thiệt hại cho họ.
Trên giác độ rộng
hơn, môi trường thích hợp cho việc khởi nghiệp phải là môi trường ngày càng tạo
ra nhiều người khát khao, mong muốn làm một cái gì đó riêng của mình. Mà để làm
được việc này thì cần phải có những chuyển biến cũng ở tầm quốc gia. Ví dụ như
chừng nào còn chuyện xin được một việc làm trong nhà nước có nghĩa là sẽ được
yên ổn “hưởng lộc” cả đời, làm cho thanh niên, sinh viên ra trường tìm mọi cách
để “chui” vào nhà nước thì chừng đó tinh thần khởi nghiệp sẽ còn bị thui chột
trong một bộ phận lớn giới trẻ. Mà để khắc phục được điểm này thì lại động chạm
đến những vấn đề lớn hơn như giảm biên chế, tăng cường minh bạch, xử lý mạnh tệ
nạn tham nhũng… làm giảm tính hấp dẫn của khu vực nhà nước.
Hệ thống giáo dục
cũng phải có những chuyển biến mạnh về mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo,
giảng dậy để giảm thiểu tinh thần học để làm “thầy”, làm “quan”; tăng cường các
hoạt động hướng nghiệp để học sinh ra trường biết chọn hướng đi thích hợp với
khả năng của mình; khơi gợi khả năng sáng tạo thay vì cách học nhồi sọ, một chiều
như hiện tại vốn chỉ tạo ra những con người thụ động, phục tùng và ỷ lại vào
người khác... Có thể nói, hệ thống giáo dục là một trong những mắt xích quan trọng
nhất trong hệ thống các yếu tố nuôi dưỡng và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp hiện
đang là điểm rất yếu ở Việt Nam.
Ngay cả những vấn
đề tưởng như rất to tát, xa xôi, chẳng mấy liên quan đến tinh thần khởi nghiệp
thực ra cũng lại có liên quan đến nó, ví như chuyện đổi mới tư duy về doanh
nghiệp nhà nước (DNNN), về doanh nghiệp tư nhân. Nếu DNNN vẫn cứ được xác định
là xương sống của nền kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân vẫn chỉ được thừa nhận
là có tầm quan trọng, nhưng đứng ở hạng thứ hai, thứ ba về trật tự ưu tiên tiếp
cận với các nguồn lực và đặc lợi của nhà nước thì sẽ chẳng có mấy người dám mạo
hiểm khởi nghiệp để rồi phải đối mặt với đủ thứ bất lợi, khó khăn, chèn ép.
Cũng sẽ chẳng có mấy người cảm thấy vinh dự, tự hào khi tự mình khởi nghiệp và
làm chủ doanh nghiệp của mình để rồi vẫn cứ luôn cảm thấy mình ở “chiếu dưới”
trong thứ bậc xã hội so với các DNNN và doanh nghiệp nước ngoài.
Tóm lại, thúc đẩy
tinh thần khởi nghiệp ở Việt Nam không cần phải nhìn xa đến tận Israel nhưng cũng
không đơn giản thực hiện được bằng những giải pháp cục bộ, chung chung mang
tính hình thức, kêu gọi hay cổ vũ suông, mà phải bằng những công việc thiết thực
nhưng phần lớn mang tầm vóc quốc gia như nói ở trên.
No comments:
Post a Comment