Monday 17 July 2017

NHNN hạ lãi suất để hỗ trợ xuất khẩu? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 15/7/2017, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/nhnn-ha-lai-suat-de-ho-tro-xuat-khau/1203904/

Cuối tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bất ngờ giảm 0,25 điểm phần trăm các lãi suất điều hành của mình, đồng thời giảm 0,5 điểm phần trăm trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực và ngành kinh tế.

Nhận định về động thái trên của NHNN, có một số ý kiến trái chiều nhau. Trong khi một số người cho rằng đây là hành động nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN để hỗ trợ tăng trưởng, thì một số khác lại cho rằng đây là một tín hiệu bật đèn xanh để các tổ chức tín dụng hưởng ứng, cùng chia sẻ khó khăn với người đi vay, giảm gánh nặng về vốn trong sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.

Công bằng mà nói, hành động trên của NHNN không hẳn là nới lỏng chính sách tiền tệ, tức tăng cung tiền, nên vì thế cũng không có nhiều tác động đến tăng trưởng kinh tế. ĐIều này là bởi NHNN vẫn tiếp tục duy trì hạn mức tăng trưởng tín dụng chung cho nền kinh tế ở mức 18%, và tức là nguồn vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại cũng không thể tăng mạnh hơn trong năm nay từ mức đặt ra hồi đầu năm bởi NHNN.   

Còn nếu nói đó là hành động bật đèn xanh, để các ngân hàng thương mại tích cực hưởng ứng và thông qua đó cắt giảm lãi suất cho vay thì cũng không hoàn toàn đúng. Như đã nói, với hạn mức tăng trưởng tín dụng cho năm nay bị khống chế ở con số 18%, dẫu các ngân hàng thương mại được cung cấp một nguồn vốn với giá rẻ hơn trước đây từ NHNN nhưng họ cũng không thể đẩy mạnh cho vay với lãi suất thấp hơn được.

Thay vào đó, các ngân hàng thương mại vẫn sẽ chỉ tập trung vào cho vay các khách hàng doanh nghiệp và cá nhân truyền thống có khả năng chấp nhận lãi suất cho vay cao và có mức an toàn tín dụng chấp nhận được, thay vì mở rộng hơn nữa phạm vi và đối tượng cho vay, gồm cả những đối tượng khách hàng mới có rủi ro cao hơn, hoặc các đối tượng khách hàng ưu tiên theo yêu cầu của NHNN (gồm nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) nhưng ở mức lãi suất cho vay thấp.

Mặc dù NHNN cũng giảm 0,5 điểm phần trăm trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn trong một số lĩnh vực và ngành nghề, nhưng cần lưu ý rằng đây là lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại với các khách hàng trong những lĩnh vực và ngành nghề ưu tiên, chứ không phải là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHNN với các tổ chức tín dụng. Bởi vậy, tuy trên danh nghĩa, khi cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp trong những lĩnh vực và ngành nghề ưu tiên này các ngân hàng thương mại phải cắt giảm lãi suất cho vay ít nhất là 0,5 điểm phần trăm (nếu lãi suất cho vay đã chạm trần cũ) nhưng trên thực tế điều này không có nghĩa là khách hàng vay vốn trong các ngành nghề và lĩnh vực ưu tiên này sẽ ngay lập tức là người hưởng lợi từ động thái cắt giảm lãi suất trên của NHNN.

Do NHNN không ban hành kèm theo quyết định cắt giảm lãi suất điều hành và trần lãi suất cho vay ngắn hạn nói trên một quyết định khác là bắt buộc các ngân hàng thương mại phải dành bao nhiêu phần trăm vốn cho vay cho các lĩnh vực ưu tiên, và NHNN cũng không có động thái bổ sung như hạ hơn nữa lãi suất điều hành áp dụng với các tổ chức tài chính nếu các tổ chức tín dụng này dành tối thiểu bao nhiêu phần trăm vốn cho vay cho các ngành nghề và lĩnh vực ưu tiên, nên các ngân hàng thương mại hoàn toàn có thể sẽ “lách” quy định mới về trần lãi suất cho vay ngắn hạn nói trên bằng việc không cho vay các khách hàng thuộc diện ưu tiên này nữa.

Giả sử NHNN nhận thức rõ các hạn chế của chính sách lãi suất mới của mình như đã phân tích ở trên, nhưng vẫn ban hành chính sách này. Vậy câu hỏi ở đây là động cơ thực sự đằng sau động thái cắt giảm lãi suất trên của NHNN là gì?

Ngoài tính biểu trưng, như là một phần trong động thái hưởng ứng yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ hỗ trợ cho tăng trưởng, rất có thể NHNN mong muốn hành động cắt giảm lãi suất của mình sẽ mang đến thêm một yếu tố tích cực hỗ trợ cho xuất khẩu và giảm nhập khẩu thông qua kênh tỉ giá.

Với việc hạ lãi suất điều hành thấp hơn, NHNN gián tiếp làm gia tăng áp lực lên tỉ giá VND/USD, dẫn đến VND tiếp tục suy yếu thêm so với USD trong bối cảnh tỉ giá giao dịch tại các ngân hàng thương mại rất ổn định như hiện tại, bất chấp nhập siêu gia tăng ở Việt Nam, và Fed đã tăng lãi suất ở Mỹ. Chủ trương làm yếu VND này cũng được thể hiện qua xu hướng tăng lên liên tục của tỉ giá trung tâm của NHNN trong thời gian gần đây. Rất dó thể trong bối cảnh sự điều chỉnh tỉ giá trung tâm này không lôi kéo theo được tỉ giá giao dịch thực tế tại các ngân hàng thương mại theo đúng ý đồ của mình nên NHNN buộc phải có thêm một động thái hỗ trợ khác, đó là hạ lãi suất điều hành, để làm suy yếu VND.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).