Thursday, 18 December 2014

Tỷ giá sẽ khó tăng mạnh! (Bài đăng trên CafeF, 19/12)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/ty-gia-se-kho-tang-manh-201412190821058903ca34.chn

Tỷ giá năm 2015 sẽ khó tăng trên 2%! Điều này có thể khẳng định ngay được, đơn giản vì đó là định hướng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNNN) Nguyễn Văn Bình, người từng nói “tôi nói là làm” khi nói về công tác điều hành tỷ giá của họ!
 
Để hậu thuẫn cho định hướng chính sách của mình, ông Bình đã nêu ra một căn cứ quan trọng là cán cân tổng thể được dự báo sẽ tiếp tục ở mức thặng dư lớn, chừng 8 tỷ USD (thặng dư năm 2014, tính đến tháng 11, là hơn 10 tỷ USD). Ngay từ đầu năm 2014 này ông Bình cũng đã tuyên bố nếu có điều chỉnh thì tỷ giá cũng chỉ tăng không quá 2%. Và thực tế là cho đến nay tỷ giá (niêm yết trong hệ thống ngân hàng) vẫn chưa vượt quá mức này.

Đến thời điểm này, có lẽ thị trường không còn dám nghi ngờ quyết tâm “nói đi đôi với làm” của ông Bình nữa, và nếu đúng như ông Bình dự đoán về thặng dư cán cân tổng thể thì có lẽ việc ép biến động tỷ giá không quá 2% là chuyện rõ ràng trong tầm tay của NHNN.
 
Nhưng, điều cần nói ở đây là tại sao với cán cân tổng thể thặng dư lớn như năm nay mà NHNN vẫn phải điều chỉnh tỷ giá, dù chỉ là mức chưa đến ngưỡng 2% như họ đặt ra?

Câu trả lời đương nhiên là do áp lực phá giá (“điều chỉnh tỷ giá”) đến từ việc VND lên giá thực so với USD do lạm phát ở Việt Nam đã cao hơn nhiều so với Mỹ trong đôi ba năm qua trong khi tỷ giá danh nghĩa ít biến động. Kết cục là xuất khẩu chắc chắn đã bị ảnh hưởng tiêu cực từ sự lên giá thực này, là điều mà chính ông Bình sau này cũng phải thừa nhận, để rồi buộc phải “điều chỉnh tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu”.
 
Từ góc độ lạm phát này, có thể thấy NHNN đã rất may mắn khi trải qua gần hết một năm nay mà lạm phát ở Việt Nam lần đầu tiên trong nhiều năm đã đứng ở mức thấp, dự tính trên 2% một chút (và một phần lớn là nhờ giá dầu thô và hàng hóa trên thế giới tụt giảm). Khi lạm phát ở Việt Nam giảm xuống mức thấp như hiện nay, chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ có thể đã thu hẹp đến mức không đáng kể, từ đó làm giảm đáng kể áp lực phá giá VND trong năm nay để cải thiện sức cạnh tranh của xuất khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh khá thuận lợi như vậy trong năm nay, dễ hiểu tại sao NHNN lại khá thành công trong việc ổn định tỷ giá mà không gây ra mấy biến động vĩ mô lớn.
 
Và cũng từ góc độ lạm phát này, nhìn sang năm 2015, với mục tiêu lạm phát được đặt ở mức cao hơn, khoảng 4%-5%, rõ ràng có thể thấy “room” để NHNN kiểm soát tỷ giá không còn được “xông xênh” như năm nay nữa, khi VND sẽ lại bị chịu thêm áp lực phá giá, nếu không muốn tiếp tục làm suy giảm sức cạnh tranh của xuất khẩu Việt Nam.
 
Bởi vậy, tuy người ta có thể không còn mấy nghi ngờ khả năng bình ổn tỷ giá của NHNN, và NHNN cũng hoàn toàn có thể có đủ nguồn lực (dự trữ ngoại hối được củng cố nhờ thặng dư cán cân tổng thể) để bình ổn tỷ giá trong năm 2015, nhưng vấn đề rõ ràng là nếu NHNN vẫn cứ cứng nhắc mục tiêu ổn định tỷ giá nói trên để khẳng định thêm uy tín chính sách của mình thì không chỉ xuất khẩu của Việt Nam nói riêng, và do đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói chung sẽ bị ảnh hưởng lớn hơn trong năm tới, mà nguồn lực của NHNN (cụ thể là dự trữ ngoại hối) sẽ bị hao hụt đáng kể, tính bằng hàng tỷ USD, để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá, như đã chứng kiến trong thời gian qua. Liệu cái giá phải trả này là quá nhỏ để NHNN bỏ qua và tiếp tục cuộc chơi như đã định?
 
Do đó, bài học chính sách rút ra ở đây là NHNN cần uyển chuyển hơn về lập trường chính sách tỷ giá của mình, cân nhắc và đặt nó trong bối cảnh chung có sự hiện diện của các biến vĩ mô khác như lạm phát, lãi suất, và tăng trưởng GDP. NHNN cần tránh để mình bị mắc kẹt vào những cam kết quá sớm (ngay từ thời điểm này cho năm sau) của chính mình trong khi bức tranh kinh tế trong và ngoài nước thay đổi hàng ngày, hàng giờ mà không ai có thể dự đoán, biết trước được, như những gì đã và đang xảy ra dồn dập chỉ trong một hai tháng qua.
 
Nếu bị kẹt vào trong tình trạng thực tế không như những gì đã nghĩ, đã tuyên bố, thì NHNN, nếu không muốn trả một cái giá quá đắt để bình ổn tỷ giá như cam kết, có thể sẽ lại buộc phải phá vỡ lời cam kết của chính mình, để rồi lòng tin chính sách mong manh của công chúng vừa gây dựng được lại một lần nữa tan thành mây khói.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).