Monday, 11 May 2015

Cần quan niệm lại về mặt trái của phá giá VND (Bài đăng trên CafeF, 11/5/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/can-quan-niem-lai-ve-noi-lo-pha-gia-vnd-20150511090050202.chn

Sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phá giá VND thêm 1 điểm phần trăm ngày 7/5, đã có nhiều tin bài đề cập đến những nỗi khổ mang lại cho các doanh nghiệp và người dân từ chuyện phá giá này của NHNN.

Về nỗi khó cho doanh nghiệp nhập khẩu, quả là trên thực tế có thể có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất và tiêu thụ trong nước, hoặc cũng có nhiều doanh nghiệp khác đơn thuần nhập khẩu hóa về để bán lại trong nước - thực chất là nhà phân phối, kinh doanh – sẽ phải trả nhiều VND hơn cho đơn hàng nhập khẩu của mình bằng USD. Tác động tiêu cực của phá giá VND lên những doanh nghiệp này là không thể phủ nhận.

Nhưng tác động tiêu cực lên nhập khẩu này chính là một trong những mục đích nhắm đến một cách chủ ý của phá giá các bản tệ nói chung trên thế giới và VND nói riêng. Phá giá sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu, buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm nhập khẩu, thay thế nhập khẩu bằng hàng sản xuất trong nước, hoặc buộc các chủ thể kinh tế tiêu thụ hàng nhập khẩu phải cắt giảm mức tiêu thụ hàng nhập khẩu của mình để chuyển sang dùng hàng trong nước.

Trở lại với những trường hợp thiệt hại như nêu trên. Với doanh nghiệp nhập khẩu 100% nguyên liệu để sản xuất và tiêu thụ trong nước, khi VND bị mất giá so với USD, họ buộc phải nâng giá bán sản phẩm trong nước để bù đắp phần chênh lệch VND phải bỏ ra để nhập khẩu nguyên liệu. Nếu không nâng được giá bán tương ứng, chịu áp lực thu hẹp lợi nhuận thì các doanh nghiệp này phải quay ra ép các đầu mối xuất khẩu cho họ hạ giá xuất khẩu cho họ, cũng hệt như lý do mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phàn nàn khi bị các đối tác nhập khẩu ở châu Âu và Nhật ép giá xuất khẩu với lý do là euro và yen đã mất giá mạnh so với USD. Tức là tình hình thực ra cũng không đến nỗi bi quan như các doanh nghiệp này kêu ca (và tội gì không kêu ca?).

Nếu không may mà cả việc nâng giá bán trong nước lẫn việc ép đối tác xuất khẩu phải hạ giá xuất khẩu cho mình đều không thành thì các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ còn cách là chuyển sang tìm nguồn hàng cung cấp trong nước với giá rẻ hơn để tiếp tục sản xuất, kinh doanh. Và nếu vẫn không suôn sẻ hoặc không may nữa thì các doanh nghiệp này hoặc phải thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh, hoặc phải đóng cửa.

Nhưng sự việc không dừng lại ở đây. Khi doanh nghiệp nhập khẩu thu hẹp quy mô hoặc đóng cửa, chúng sẽ để ngỏ nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng này cho các doanh nghiệp khác trong nước gia tăng sản xuất để đáp ứng. Đây chính là một trong những lý do tại sao Nga không hoàn toàn vui với việc đồng rouble của họ đã phục hồi ngoạn mục trong mấy tháng nay, vì sự phục hồi này sẽ làm gián đoạn quá trình gia tăng phát triển của các ngành kinh tế thay thế nhập khẩu trong nước chớp thời cơ đồng rouble suy yếu nghiêm trọng trong năm 2014 kết hợp với cấm vận nhập khẩu của phương Tây.

Với những trường hợp thiệt hại vì VND bị phá giá khác như ví dụ về nông dân phải trả nhiều tiền hơn cho phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu, trong khi sản phẩm của họ lại được tiêu thụ chủ yếu trong nước. Cũng phải thừa nhận ngay rằng thiệt hại này là nhãn tiền, không thể phủ nhận.

Nhưng cũng tương tự như với trường hợp các doanh nghiệp nhập khẩu đã phân tích ở trên, khi giá vật tư nông nghiệp nhập khẩu đắt đỏ hơn thì nông dân phải tìm đến các nguồn cung trong nước với giá rẻ và ổn định hơn. Việc này sẽ làm gia tăng năng lực sản xuất nội địa của các doanh nghiệp cung ứng vật tư nông nghiệp (sử dụng nguyên liệu) trong nước.

Nếu không may rằng vật tư nông nghiệp do các doanh nghiệp trong nước cung cấp không đủ, không rẻ, hoặc không đảm bảo chất lượng như hàng nhập khẩu thì nông dân sẽ phải tính toán lại bài toán “nuôi con gì, trồng cây gì” để sao cho có lợi nhất, đảm bảo doanh thu và lợi nhuận bất chấp giá vật tư nông nghiệp trong và ngoài nước ở mức cao. Tức là sẽ có một sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phù hợp, tuân theo quy luật thị trường.

Lại giả thiết tiếp rằng nông dân không tự mình biết “nuôi con gì, trồng cây gì” cho phù hợp nhất, như đã từng xảy ra với nhiều nông sản ế thừa hiện nay. Khó khăn cả đầu vào lẫn đầu ra đương nhiên sẽ làm nhiều nông dân thua lỗ, thu hẹp hoặc chấm dứt nuôi trồng một số nông sản đang dư thừa hoặc gây lỗ vốn. Điều này làm giảm cung, có lợi cho giá xuất khẩu và tiêu thụ nội địa của những nông sản đó, và tức là làm lợi cho những nông dân sản xuất có hiệu quả khác, một điều cũng hoàn toàn phù hợp với quy luật thị trường.

Tóm lại, mọi chính sách kinh tế đều có tác động hai mặt, sẽ có người lợi và người chịu thiệt. Nhưng điều quan trọng là chính sách kinh tế đó có mang lại ích lợi về tổng thể cho cả nền kinh tế hay không. Trong trường hợp NHNN chấp nhận phá giá VND, điều này có nghĩa là NHNN đã thấy rằng phá giá là điều có lợi trên tổng thể cho cả nền kinh tế hơn là không phá giá. Bởi vậy, không nên vì một số trường hợp bị thiệt hại bởi việc phá giá VND mà chùn tay trong việc phá giá, nếu cần thiết phải vậy.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).