http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/can-quan-niem-lai-ve-noi-lo-pha-gia-vnd-20150511090050202.chn
Sau khi Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) phá giá VND thêm 1 điểm phần trăm ngày 7/5, đã có nhiều
tin bài đề cập đến những nỗi khổ mang lại cho các doanh nghiệp và người dân từ
chuyện phá giá này của NHNN.
Về nỗi khó cho doanh
nghiệp nhập khẩu, quả là trên thực tế có thể có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu
nguyên liệu để sản xuất và tiêu thụ trong nước, hoặc cũng có nhiều doanh nghiệp
khác đơn thuần nhập khẩu hóa về để bán lại trong nước - thực chất là nhà phân phối,
kinh doanh – sẽ phải trả nhiều VND hơn cho đơn hàng nhập khẩu của mình bằng
USD. Tác động tiêu cực của phá giá VND lên những doanh nghiệp này là không thể
phủ nhận.
Nhưng tác động tiêu cực
lên nhập khẩu này chính là một trong những mục đích nhắm đến một cách chủ ý của
phá giá các bản tệ nói chung trên thế giới và VND nói riêng. Phá giá sẽ gây bất
lợi cho nhập khẩu, buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm nhập khẩu, thay thế nhập
khẩu bằng hàng sản xuất trong nước, hoặc buộc các chủ thể kinh tế tiêu thụ hàng
nhập khẩu phải cắt giảm mức tiêu thụ hàng nhập khẩu của mình để chuyển sang
dùng hàng trong nước.
Trở lại với những trường
hợp thiệt hại như nêu trên. Với doanh nghiệp nhập khẩu 100% nguyên liệu để sản
xuất và tiêu thụ trong nước, khi VND bị mất giá so với USD, họ buộc phải nâng
giá bán sản phẩm trong nước để bù đắp phần chênh lệch VND phải bỏ ra để nhập khẩu
nguyên liệu. Nếu không nâng được giá bán tương ứng, chịu áp lực thu hẹp lợi nhuận
thì các doanh nghiệp này phải quay ra ép các đầu mối xuất khẩu cho họ hạ giá xuất
khẩu cho họ, cũng hệt như lý do mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phàn nàn
khi bị các đối tác nhập khẩu ở châu Âu và Nhật ép giá xuất khẩu với lý do là
euro và yen đã mất giá mạnh so với USD. Tức là tình hình thực ra cũng không đến
nỗi bi quan như các doanh nghiệp này kêu ca (và tội gì không kêu ca?).
Nếu không may mà cả việc
nâng giá bán trong nước lẫn việc ép đối tác xuất khẩu phải hạ giá xuất khẩu cho
mình đều không thành thì các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ còn cách là chuyển sang
tìm nguồn hàng cung cấp trong nước với giá rẻ hơn để tiếp tục sản xuất, kinh
doanh. Và nếu vẫn không suôn sẻ hoặc không may nữa thì các doanh nghiệp này hoặc
phải thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh, hoặc phải đóng cửa.
Nhưng sự việc không dừng
lại ở đây. Khi doanh nghiệp nhập khẩu thu hẹp quy mô hoặc đóng cửa, chúng sẽ để
ngỏ nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng này cho các doanh nghiệp khác trong nước gia
tăng sản xuất để đáp ứng. Đây chính là một trong những lý do tại sao Nga không
hoàn toàn vui với việc đồng rouble của họ đã phục hồi ngoạn mục trong mấy tháng
nay, vì sự phục hồi này sẽ làm gián đoạn quá trình gia tăng phát triển của các
ngành kinh tế thay thế nhập khẩu trong nước chớp thời cơ đồng rouble suy yếu
nghiêm trọng trong năm 2014 kết hợp với cấm vận nhập khẩu của phương Tây.
Với những trường hợp thiệt
hại vì VND bị phá giá khác như ví dụ về nông dân phải trả nhiều tiền hơn cho
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu, trong khi sản phẩm của họ lại được
tiêu thụ chủ yếu trong nước. Cũng phải thừa nhận ngay rằng thiệt hại này là
nhãn tiền, không thể phủ nhận.
Nhưng cũng tương tự như
với trường hợp các doanh nghiệp nhập khẩu đã phân tích ở trên, khi giá vật tư
nông nghiệp nhập khẩu đắt đỏ hơn thì nông dân phải tìm đến các nguồn cung trong
nước với giá rẻ và ổn định hơn. Việc này sẽ làm gia tăng năng lực sản xuất nội
địa của các doanh nghiệp cung ứng vật tư nông nghiệp (sử dụng nguyên liệu)
trong nước.
Nếu không may rằng vật
tư nông nghiệp do các doanh nghiệp trong nước cung cấp không đủ, không rẻ, hoặc
không đảm bảo chất lượng như hàng nhập khẩu thì nông dân sẽ phải tính toán lại
bài toán “nuôi con gì, trồng cây gì” để sao cho có lợi nhất, đảm bảo doanh thu
và lợi nhuận bất chấp giá vật tư nông nghiệp trong và ngoài nước ở mức cao. Tức
là sẽ có một sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phù hợp,
tuân theo quy luật thị trường.
Lại giả thiết tiếp rằng
nông dân không tự mình biết “nuôi con gì, trồng cây gì” cho phù hợp nhất, như
đã từng xảy ra với nhiều nông sản ế thừa hiện nay. Khó khăn cả đầu vào lẫn đầu
ra đương nhiên sẽ làm nhiều nông dân thua lỗ, thu hẹp hoặc chấm dứt nuôi trồng
một số nông sản đang dư thừa hoặc gây lỗ vốn. Điều này làm giảm cung, có lợi
cho giá xuất khẩu và tiêu thụ nội địa của những nông sản đó, và tức là làm lợi
cho những nông dân sản xuất có hiệu quả khác, một điều cũng hoàn toàn phù hợp với
quy luật thị trường.
Tóm lại, mọi chính sách
kinh tế đều có tác động hai mặt, sẽ có người lợi và người chịu thiệt. Nhưng điều
quan trọng là chính sách kinh tế đó có mang lại ích lợi về tổng thể cho cả nền
kinh tế hay không. Trong trường hợp NHNN chấp nhận phá giá VND, điều này có
nghĩa là NHNN đã thấy rằng phá giá là điều có lợi trên tổng thể cho cả nền kinh
tế hơn là không phá giá. Bởi vậy, không nên vì một số trường hợp bị thiệt hại bởi
việc phá giá VND mà chùn tay trong việc phá giá, nếu cần thiết phải vậy.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
No comments:
Post a Comment