Wednesday, 16 December 2015

Cuộc chơi không cân sức của NHNN (Bài đăng trên TBKTSG, 17/12/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/139904/Cuoc-choi-khong-can-suc.html

Trong 2 ngày 15 và 16 tháng này  Fed sẽ nhóm họp đưa ra quyết định về lãi suất cơ bản của Mỹ. Số liệu  việc làm và sự ổn định trở lại của các thị trường tài chính toàn cầu trong những tháng qua là những hậu thuẫn mạnh cho khả năng Fed sẽ tăng lãi suất trong tuần này. Nếu vậy, đây sẽ là lần đầu tiên Fed tăng lãi suất trong vòng 7 năm nay, sau nhiều lần trù trừ, đắn đo trước sự phục hồi không chắc chắn của nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, do phải cân nhắc đến tác động ngược của lãi suất tăng cao lên nền kinh tế, Fed có khả năng sẽ chỉ tăng lãi suất thành từng bước với biên độ nhỏ mỗi lần tăng, ví dụ như 0,25 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, đồng Nhân dân tệ (RMB) sau khi bị phá giá mạnh từ 6,2 RMB/USD vào ngày 9/8/2015 xuống 6,44 RMB/USD (tức giảm 3,9%) đã hồi phục lên mức 6,3 RMB/USD vào ngày 1/11 để rồi từ đó lại tiếp tục trượt dài xuống còn 6,458 RMB/USD vào ngày 12/12/2015 (tức đã mất gần 4,2% so với ngày 9/8). Sự trượt dốc của RMB diễn ra bất chấp gần đây nó đã được IMF chính thức đưa vào giỏ tiền SDR (quyền rút vốn đặc biệt), kèm với kỳ vọng rằng nhu cầu nắm giữ đồng tiền này bởi các ngân hàng trung ương và các nhà đầu tư quốc tế sẽ tăng mạnh, làm nó tăng giá so với các bản tệ khác. Có lẽ sự sa sút về tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc đã triệt tiêu hoàn toàn động lực tăng giá RMB từ việc IMF đưa nó vào giỏ SDR, làm cho đồng tiền này vẫn còn xu hướng tiếp tục giảm giá ít nhất trong ngắn hạn. Đáng lưu ý là sự suy yếu của RMB lại là một yếu tố có lợi, thậm chí còn là mong muốn của Trung Quốc vì nó sẽ giúp cho nền kinh tế nước này có thêm động lực tang trưởng nhờ gia tăng xuất khẩu vốn đang trì trệ.
Khi Fed mới chỉ “rập rình” tăng lãi suất, các đồng bản tệ khác trên thế giới đã thi nhau mất giá. Kể cả sự mất giá của RMB được cho là do nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng khả năng Fed tăng lãi suất USD đã lôi kéo dòng vốn nước ngoài chảy ra khỏi nền kinh tế các nước nói chung và Trung Quốc nói riêng, dẫn đến gia tăng áp lực lên tỷ giá của RMB đến mức Trung Quốc đã phải tiêu tốn đến gần 100 tỷ USD để bảo vệ tỷ giá trong mấy tháng trước đây.
Trong bối cảnh hiện tại, nếu Fed quyết định tăng lãi suất, dù chỉ là 0,25 điểm phần trăm, thì chắc chắn sẽ lôi kéo theo sự mất giá thêm nữa của các bản tệ khác, trong đó có RMB. Ngoài lợi ích tích cực cho tăng trưởng kinh tế nếu RMB tiếp tục suy yếu, RMB nay đã là một đồng tiền dự trữ quốc tế nên Chính phủ Trung Quốc càng không có lý do gì để can thiệp ổn định tỷ giá RMB, trừ khi có những biến động quá lớn làm Trung Quốc e ngại sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát của họ. Đây cũng là những yếu tố nằm ngoài dự kiến của nhiều người trong giới chuyên gia và quan chức khi cách đây không lâu còn tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ không để RMB suy yếu thêm nên khuyến nghị NHNN không nên điều chỉnh thêm nữa tỷ giá VND. Chưa hết, đến lượt nó, sự mất giá thêm của RMB có khả năng châm ngòi cho một cuộc đua phá giá bản tệ trên thế giới.
Ở Việt Nam, chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mặc dù vẫn nhấn mạnh quyết tâm ổn định tỷ giá VND/USD nhưng trên thực tế NHNN đã phải lùi bước trước áp lực đến từ bên ngoài, chủ yếu từ sự mất giá của nhiều đồng bản tệ trên thế giới và đặc biệt là RMB, buộc phải tiến hành những đợt điều chỉnh tỷ giá cũng như biên độ biến động của tỷ giá trong năm nay, để VND mất giá khoảng 5% so với USD kể từ đầu năm nay. Tuy vậy, những đợt điều chỉnh này tỏ ra là chưa đủ, thể hiện ở sức ép căng thẳng luôn có xu hướng đẩy tỷ giá lên gần kịch trần bất chấp sự can thiệp bán ngoại tệ của NHNN. Với dự trữ ngoại hối sụt giảm nhanh chóng, NHNN đã phải viện đến các biện pháp hành chính để kiểm soát tỷ giá trong khuôn khổ mục tiêu của mình, như hạ lãi suất tiền gửi USD và thắt chặt điều kiện để mua và vay USD.

Hơn nữa, giả sử rằng mức tỷ giá VND ổn định ở mức gần kịch trần (22.547 VND/USD) như hiện tại là mức cân bằng tạm thời trong bối cảnh Fed chưa tăng lãi suất và RMB không suy yếu thêm kể từ các đợt phá giá hồi tháng 8. Như vậy, với việc Fed chính thức tăng lãi suất và/hoặc RMB suy yếu thêm như đang chứng kiến hiện tại thì rõ ràng các điều kiện cơ bản của cuộc chơi tỷ giá ở Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn theo hướng bất lợi cho Việt Nam.

Trước cuộc chơi mới này, NHNN nếu muốn bảo vệ tỷ giá bằng mọi cách thì sẽ phải dốc thêm nữa kho dự trữ ngoại hối mà theo ước tính chỉ còn tương đương khoảng 2 tháng nhập khẩu và tăng cường các biện pháp hành chính để tăng cung (như biện pháp kết hối) và giảm cầu USD (như xiết cho vay và bán USD). Tất cả những biện pháp này hoặc đã đến ngưỡng giới hạn, không còn mấy dư địa, hoặc chỉ là mua thêm thời gian để đổi lấy một sự ổn định trên bề mặt, như kinh nghiệm vật lộn với tỷ giá trong các năm trước đây cho thấy.
Như thế, có thể nói rằng trong cuộc chơi với hai điều kiện quan trọng đã thay đổi là Fed đã tăng lãi suất và RMB tiếp tục mất giá thì Việt Nam đang tỏ ra đuối sức, và mọi sự chống đỡ đều có khả năng tăng thêm rủi ro và bất ổn cho nền kinh tế. Điều này đòi hỏi NHNN phải điều chỉnh tỷ giá ngay càng sớm càng tốt, ở thế chủ động hơn, chứ không nên chống đỡ trong thế bị động để rồi sớm muộn cũng phải buông tay.

Điều duy nhất còn làm NHNN trù trừ, cố gắng chống đỡ tỷ giá có lẽ là do họ đã nhiều lần tuyên bố cương quyết không điều chỉnh tỷ giá thêm trong năm nay và đầu năm sau nên không muốn để lòng tin của thị trường thêm một lần nữa mất mát. Nhưng tình cảnh tiến thoái lưỡng nan hiện nay của NHNN không còn là điều xa lạ gì nữa nên thậm chí một hành động quyết đoán, chủ động phá giá VND của NHNN ngay trong phần còn lại của tháng 12 này lại là một điều được chờ đợi và hoan nghênh bởi thị trường.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).