Tuesday, 22 December 2015

Những chuyển động ngầm quanh chuyện hạ lãi suất tiền gửi USD (Bài đăng trên CafeF, 22/12/2015, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/nhung-chuyen-dong-ngam-quanh-chuyen-ha-lai-suat-tien-gui-usd-20151221164419555.chn
Sau hai đợt Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định hạ lãi suất tiền gửi USD của tổ chức và cá nhân hồi tháng 9 và trong tuần qua về 0%, trong nước lại đang râm ran bàn nhau về việc nếu gửi USD ở các ngân hàng trong nước thì chỉ được hưởng lãi suất 0%, trong khi chỉ cần mang số USD qua biên giới sang Lào gửi tại một số ngân hàng Việt Nam tại đó thì được hưởng lãi suất tới gần 5-6%/năm.
Về phía ngân hàng thương mại Việt Nam, trong khi họ huy động USD tiền gửi từ tổ chức và cá nhân với lãi suất 0% thì nếu chỉ cần đem cho vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng ít thì cũng được 0,19%/năm với các khoản cho vay qua đêm và lên tới hơn 2% với kỳ hạn cho vay 6 tháng. Như vậy, dư luận cho rằng các ngân hàng bỗng dưng trở thành “ngư ông đắc lợi” nhờ biện pháp chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về 0% của NHNN trong khi đối tượng bị thiệt hại là các tổ chức và cá nhân nắm giữ USD và có nhu cầu gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Vấn đề này thực ra không hoàn toàn đơn giản như vậy.
Đối với cá nhân và tổ chức có tiền gửi USD, khi lãi suất tiền gửi bị hạ xuống 0% từ mức 0,25%/năm trước đó sẽ vẫn có một bộ phận tiếp tục gửi USD vào hệ thống ngân hàng cho những mục đích như thanh toán, chi trả trong tương lai, hoặc đơn giản chỉ là để đợi thời cơ VND bị phá giá thêm trong thời gian sắp tới. Với bộ phận cá nhân và tổ chức này (tạm gọi là nhóm 1), vì mục đích gửi tiền USD của họ không phải là hưởng lãi tiết kiệm nên dù lãi suất tiền gửi thấp, hoặc thậm chí về 0% thì họ vẫn tiếp tục gửi USD hơn là mang về để trong két hoặc dưới chiếu. Do đó, cái sự thiệt hơn gây ra bởi NHNN không mấy liên quan với những đối tượng này.

Với cá nhân và tổ chức thực sự nhạy cảm với lãi suất tiền gửi USD tại Việt Nam (tạm gọi là nhóm 2), thì đúng là về danh nghĩa họ sẽ phản ứng ngay với chính sách lãi suất tiền gửi USD mới của NHNN và có thể sẽ rút lại các khoản tiền gửi USD khi đến hạn hoặc không gửi các khoản tiền gửi mới nữa. Nhưng cũng chính vì mục đích là để tìm kiếm lãi suất tiền gửi cao như vậy nên cho dù nếu NHNN không hạ lãi suất tiền gửi xuống 0% như vừa qua thì mức quy định 0,25% vẫn đã là quá thấp, không mấy hấp dẫn những đối tượng này, và do đó mà các ngân hàng thương mại cũng khó mà thu hút được nhiều USD. Cũng vì thế mà việc hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN xuống 0% cũng không có nhiều ý nghĩa với, không làm hại đáng kể những đối tượng này.

Và sẽ có một nhóm đối tượng thứ 3 có thuộc tính của cả nhóm 1 và 2. Nhóm này vừa muốn gửi tiền bằng USD, vừa muốn hưởng lãi suất tiền gửi USD cao. Nên rất có thể nhóm này đã tìm cách mang USD qua khỏi biên giới để gửi ở nước ngoài với lãi suất cao hơn hẳn như dư luận đã đề cập đến. Nhưng hành động này không phải là hoàn toàn “ngon ăn” như mô tả. Nhóm 3 này sẽ phải đối mặt với những rủi ro như mang USD qua lại cửa khẩu (cả chiều mang ra và chiều mang về) sẽ bị xử phạt nếu quá hạn mức cho phép và không khai báo, chịu chi phí phát sinh và rủi ro mất mát liên quan đến việc chuyển USD qua biên giới… Nên nếu họ có được hưởng lãi suất tiền gửi cao ở nước ngoài thì điều này là đương nhiên theo nguyên tắc lợi nhuận cao thì rủi ro cao. Thêm nữa, rất có thể lãi suất 5-6% mà dư luận đề cập đến là lãi suất tiền gửi có kỳ hạn tương đối dài nên đương nhiên cũng phải cao hơn lãi suất 0% nhưng là không kỳ hạn ở trong nước (vì không ai dại gì gửi kỳ hạn dài để vẫn chỉ được hưởng lãi suất 0% ở Việt Nam).

Nếu số USD của nhóm 3 có nguồn gốc từ các giao dịch ở nước ngoài và được giữ lại ở nước ngoài chứ không chuyển về nước thì đây cũng chính là một hình thức lách luật của các cá nhân và tổ chức có doanh thu ngoại tệ ở nước ngoài (ví dụ qua xuất khẩu) nhưng họ không chuyển doanh thu về nước (và quy ra VND), mà giữ lại ở nước ngoài vì những lý do như chênh lệch lãi suất tiền gửi USD giữa trong và ngoài nước, vì lo VND bị phá giá. Đây là một khả năng mà một số chuyên gia đã đề cập đến khi bàn về tính hữu hiệu của chính sách lãi suất tiền gửi USD của NHNN thời gian qua.

Về phía các ngân hàng, với nhóm đối tượng 1, các ngân hàng đúng là sẽ giảm chi phí trả lãi huy động USD hơn được một chút (giảm 0,25 điểm phần trăm) trong khi lãi suất cho vay vẫn giữ nguyên nên các ngân hàng sẽ thu lợi hơn. Nhưng mối lợi này chỉ có hạn không chỉ vì mức giảm lãi suất phải trả là nhỏ, mà còn vì như trên đã nói, nhóm đối tượng 1 chỉ là một bộ phận chứ không phải tất cả các cá nhân và tổ chức nắm giữ USD. Hơn nữa, nguồn USD huy động từ nhóm này thường chỉ là không kỳ hạn và có thể bị chủ sở hữu rút ra bất cứ lúc nào nên cho dù các ngân hàng có huy động được một số lượng lớn USD từ nguồn này thì họ cũng không thể dễ bề cho vay ra ở những kỳ hạn dài hơn như 6 tháng, 1 năm để được hưởng lãi suất đến 2%/năm hoặc hơn vì phải chịu rủi ro chênh lệch kỳ hạn.

Với nhóm đối tượng 2, các ngân hàng nếu muốn thu hút được tiền gửi của họ thì buộc phải “đi đêm”, thỏa thuận ngầm với những đối tượng thuộc nhóm này. Nguồn tin riêng cho biết một số ngân hàng đã chấp nhận trả cho người gửi tiền với số lượng lớn và ổn định lãi suất lên tới 1,5% hoặc hơn. Cần phải lưu ý rằng hành động thỏa thuận ngầm này không phải là hiếm, chỉ bây giờ mới có, mà luôn phát sinh và tồn tại mỗi khi NHNN phải áp dụng đến một cái trần nào đó để khống chế một cái gì đó chỉ trực tăng vọt. Như thế thì mức chênh lệch lãi suất thực thu của các ngân hàng sẽ không giống như trên lý thuyết thể hiện bằng một con tính trừ giữa lãi suất cho vay trừ lãi suất huy động danh nghĩa.

Với nhóm 3, bản thân việc các ngân hàng Việt Nam phải chấp nhận trả lãi suất huy động đến 5-6% cho người gửi USD ở Lào cho thấy các ngân hàng đó và cả nhiều ngân hàng khác ở Việt Nam đã không thể huy động được số USD cần thiết, và đây có thể là do hậu quả của chính sách lãi suất của NHNN như nói ở trên. Về bản chất, đây chính là một hành động đi vay nước ngoài của (các doanh nghiệp) Việt Nam, và do đó người đi vay sẽ chịu sự chế tài của các quy định liên quan đến quản lý ngoại hối và vay nợ nước ngoài, đồng thời chịu rủi ro và chi phí liên quan đến huy động và vận chuyển ngoại tệ vào ra khỏi lãnh thổ… nên cũng có thể nói rằng việc họ phải huy động ở nước ngoài với lãi suất cao cũng là việc cực chẳng đã.

Tóm lại, nhìn từ cả 2 phía khách hàng và ngân hàng thì rõ ràng chẳng có bên nào chỉ được lợi và bên nào chỉ bị thiệt hại. Không những vậy, sự phân tích trên còn cho thấy rốt cục 2 bên đã tìm cách qua mặt được NHNN để đến được với nhau bằng những thỏa thuận ngầm nhưng ở mức phí tổn cao hơn cho cả 2 phía. Đây cũng chính là mặt trái của chính sách lãi suất tiền gửi USD của NHNN.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).