Một nhóm tác giả
độc lập (nhóm tác giả) mới đây đã công bố bảng xếp hạng 49 đại học ở Việt Nam.
Bảng xếp hạng này đã làm xôn xao dư luận bởi một số trường bấy lâu nay vẫn được
coi là hàng đầu thì nay đứng ở hạng trung hoặc hạng bét. Kết quả này, theo giải
thích của nhóm tác giả, là do sự hiện diện trên các ấn phẩm khoa học quốc tế của
những trường được coi là hàng đầu này lại không cao.
Chuyện chung
Trước tiên, phải
nhìn nhận một điều là trọng số của tiêu chí nghiên cứu khoa học (và công bố
trên các ấn phẩm khoa học quốc tế) có thể là quá cao – 40%, trong khi số tiêu
chí thì ít, chỉ có 3. Nếu so với bộ tiêu chí dùng để xếp hạng các đại học trên
thế giới, ví dụ của Times Higher Education với bảng xếp hạng World University
Rankings (1), thì thấy các chỉ tiêu và trọng số của nhóm tác giả là quá nghèo
nàn và mất cân đối.
Nhưng có một điều
đáng chú ý là dù có nhiều chỉ tiêu hơn nhằm đánh giá toàn diện chất lượng các đại
học trên thế giới nhưng tổ chức công bố bảng xếp hạng World University Rankings
vẫn gán trọng số tới 30% cho nghiên cứu (gồm các chỉ tiêu thành phần là khảo
sát danh tiếng của trường trong nghiên cứu; thu nhập từ nghiên cứu tính trên lượng
cán bộ khoa học của trường; và năng suất nghiên cứu tính theo số bài báo công bố
trên các tạp chí học thuật quốc tế).
Đồng thời, số lượng
các nghiên cứu được công bố của trường được trích dẫn trên thế giới (cho biết tầm
ảnh hưởng và đóng góp của các nghiên cứu của trường đến kho tàng trí thức nhân
loại) cũng được gán trọng số tới 30%. Ngoài 2 chỉ tiêu này, chỉ có giảng dạy
(hoặc môi trường học tập) mới được gán trọng số 30%.
Cách dùng các chỉ
tiêu như trên cho thấy nghiên cứu và các yếu tố liên quan đóng một vai trò quan
trọng đặc biệt, có thể nói là chi phối trong định vị thứ hạng của các trường đại
học. (Cũng lưu ý thêm là tổ chức xếp hạng có những điều chỉnh thích hợp để khắc
phục những chênh lệch giữa các loại hình đại học, ngành nghiên cứu, làm cho việc
so sánh trở nên nhất quán, có ý nghĩa).
Nếu áp dụng bộ chỉ
tiêu này, hoặc dù ở dạng lược giản hơn để phù hợp với tình trạng thiếu thông
tin và thông tin không nhất quán, minh bạch ở Việt Nam, thì chắc cũng sẽ dẫn đến
một kết quả khá tương tự như của nhóm tác giả, do chỉ tiêu nghiên cứu vẫn chiếm
trọng số lớn và dễ dàng thống kê, so sánh nhất quán từ các nguồn quốc tế. Nói
cách khác, một số đại học bấy lâu nay ở Việt Nam tuy vẫn là “hàng hot”, thu hút
đông đảo sinh viên với điểm tuyển vào cao ngất ngưởng nhưng chắc chắn sẽ có thứ
hạng rất xoàng vì thành tích nghiên cứu nghèo nàn, đáng thất vọng của họ. Thực
tế này nên được thừa nhận một cách thẳng thắn và dũng cảm. Nếu không, họ mãi sẽ
chỉ lội trong vũng ao làng, chỉ là “lò” dạy học sinh lớp 13+ mà thôi.
Chuyện riêngXin kể trải nghiệm của bản thân người viết để minh họa thêm cho tầm quan trọng của nghiên cứu trong trường đại học. Năm thứ hai làm nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Khoa Kinh tế, Đại học Kyushu (Nhật Bản), người viết đã có một nghiên cứu được chấp nhận xuất bản bởi tạp chí ASEAN Economic Bulletin (Singapore). Với nghiên cứu này, người viết được GS Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Nhật Bản, người chắc không xa lạ gì với giới làm chính sách hay học thuật ở Việt Nam, mời đến viện mình để trình bày nghiên cứu. Khi gặp người viết và biết rằng nghiên cứu này sẽ được xuất bản, GS Ohno nói ngay, đại ý là thế thì người viết coi như đã tốt nghiệp được rồi.
Cũng phải nói
thêm, ở các trường khác, nước khác thì không biết như thế nào, nhưng ở Khoa
Kinh tế Đại học Kyushu điều chủ chốt giúp nghiên cứu sinh tốt nghiệp được và sớm
(3 năm) hầu như chỉ là phải có nghiên cứu được công bố, ít nhất thì là những tạp
chí khoa học hàng đầu trong Nhật, và tốt hơn thì là tạp chí quốc tế. Bởi vậy, rất
thường xuyên có nhiều người “ăn dầm nằm dề” ở khoa, thậm chí đến cả dăm bảy năm
hoặc hơn mà vẫn chưa thấy tốt nghiệp được. Ngược lại, khi có một nghiên cứu sinh
nào đó xuất bản được một nghiên cứu như vậy thì không chỉ con đường theo đuổi học
vấn được rộng mở mà bản thân còn nhận được sự tôn trọng pha chút ganh tị của những
người xung quanh. Điều này thậm chí còn đúng ngay với cả đội ngũ giáo sư của
khoa, nhất là khi họ “vượt vũ môn”, xuất bản được một nghiên cứu nào đó ra thế
giới.
Ngoài ra, cũng
chính bởi người viết xuất bản được nghiên cứu trên và sau đó là một số nghiên cứu
khác trong năm tiếp theo nên đã được trường giữ lại làm giảng viên chính thức,
dù vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện luận văn tốt nghiệp. Có lẽ đây là trường
hợp người nước ngoài hiếm hoi ở nơi này.
Nhìn rộng ra,
trong giới làm nghiên cứu, giảng dạy tại các đại học và cơ sở nghiên cứu, điều
làm nên sự khác biệt giữa các cá nhân cũng như giữa các trường đại học chính là
thành tích nghiên cứu, mà như được đại diện bởi bộ tiêu chí đánh giá nói ở
trên. Vào các trang nhà của bất cứ một đại học có thứ hạng nào trên thế giới đều
có phần giới thiệu trang trọng đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên với lí lịch
học thuật liệt kê các nghiên cứu đã công bố, các cuốn sách đã xuất bản. Bởi,
suy cho cùng, điều gì chứng nhận được, thước đo nào phản ánh chính xác được
trình độ học thuật, uy tín và danh tiếng của cá nhân, của trường tốt hơn là đội
ngũ giảng viên nổi danh với các công trình nghiên cứu công bố trên các tạp chí
quốc tế hàng đầu của họ?
(1)
https://www.timeshighereducation.com/world-university-rankings/methodology-world-university-rankings-2016-2017
No comments:
Post a Comment