11 nước thành
viên của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã hoàn tất đàm phán vào
ngày 23/1 năm nay để đi đến ký kết chính Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), còn được gọi là TPP-11 dự kiến vào ngày 8/3 sắp
tới tại Chile. Tuy vậy, vẫn còn nhiều điều về CPTPP chưa được đề cập đến rộng
rãi ở Việt Nam.
Lợi ích
Điều thu hút sự
quan tâm lớn nhất và trước tiên của công dân bất cứ quốc gia nào khi quốc gia
đó tham gia một hiệp định thương mại tự do là những lợi ích mang lại cho mình. Trên
nghĩa này, CPTPP tạo thuận lợi hơn cho hàng hóa và đầu tư của Việt Nam nói riêng và các nước thành viên nói
chung tiếp cận một thị trường rộng lớn ở châu Á Thái Bình Dương gồm Nhật, nền
kinh tế lớn thứ ba thế giới và là đối tác thương mại lớn của nhiều nước thành
viên, nơi hiện vẫn đang có sự bảo hộ thương mại với biểu thuế cao và nhiều rào
cản khác.
CPTPP cũng có những
thỏa thuận mạnh mẽ về môi trường và lao động, mạnh hơn tất cả các hiệp định
thương mại tự do trên thế giới đã ký kết từ trước đến nay. Về môi trường, các
điều khoản thỏa thuận trong CPTPP sẽ giúp bảo vệ môi trường nước sở tại thông
qua việc yêu cầu các bên liên đới tuân thủ các thỏa thuận quốc tế (về bảo vệ)
môi trường và dùng những thỏa thuận này để giải quyết các tranh chấp. Hiệp định
còn có điều khoản về trợ cấp đánh bắt hải sản dẫn đến đánh bắt quá mức, cũng
như quy định nghĩa vụ cho các nước thành viên xử lý việc mua bán thực vật và động
vật hoang dã bất hợp pháp.
Các thỏa thuận về
lao động nhằm bảo vệ và thực thi các quyền lao động, cải thiện điều kiện làm việc
và chất lượng sống, thắt chặt sự phối hợp trong các tranh chấp lao động v.v...
Và đây là lần đầu tiên, trong khuôn khổ CPTPP, các vấn đề về lao động được giải
quyết qua cơ chế giải quyết tranh chấp, đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ giữa
các công ty bản địa và nước ngoài với người lao động tại tất cả các nước thành
viên. Điều này giúp bảo đảm rằng không một nước thành viên nào thu được lợi thế
cạnh tranh thương mại nhờ có luật lao động lỏng lẻo và không được thực thi
nghiêm túc.
Với những ưu việt
của nó, CPTPP được kỳ vọng sẽ thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều thành
viên mới trong tương lai, không ngoại trừ cả Mỹ và thậm chí là Trung Quốc (nếu
được các nước thành viên hiện thời đồng
ý). Điều này càng tạo thêm thuận lợi cho sự tiếp cận các thị trường mới khổng lồ
của các nước thành viên hiện tại, trong đó có Việt Nam.
Chủ quyền quốc gia
Dù có nhiều điểu
khoản thỏa thuận ở mức cao, gồm quyền của doanh nghiệp nước ngoài kiện Chính phủ,
nhưng CPTPP không tước đi quyền được có các lựa chọn phù hợp với lợi ích quốc
gia nhất của Chính phủ các nước thành viên. Trong mọi trường hợp, các nước thành
viên luôn có quyền rút ra khỏi hiệp định trong tương lai nếu họ muốn vậy.
Cụ thể hơn, CPTPP
vẫn giành cho các Chính phủ thành viên quyền chế tài nhằm đảm bảo các lợi ích
công cộng của quốc gia mình, gồm các lĩnh vực như hệ thống y tế, cung cấp dược
phẩm, giáo dục công cộng, môi trường, và an ninh quốc gia v.v...
Quyền chủ quyền của
các nước thành viên còn được thể hiện cụ thể bằng việc tiếp tục được phép giám
sát và hạn chế đầu tư nước ngoài vào những khu vực nhạy cảm (về, ví dụ, đất đai
và hạn chế đánh bắt hải sản), và hạn chế người nước ngoài được sở hữu nhà.
CPTPP cũng không cấm đoán các nước thành viên thành
lập mới các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Và cũng chỉ các DNNN ở một quy mô (về
doanh thu thương mại) đủ lớn nào đó mới là đối tượng chế tài của CPTPP. Ngoài
ra, các điều khoản quy định về DNNN của CPTPP không áp dụng với các đơn vị chăm
sóc y tế cơ sở, viện nghiên cứu, các tổ chức và nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc y
tế công cộng v.v...
CPTPP cũng không
có một điều khoản nào ngăn cấm các nước thành viên được quốc hữu hóa các công
ty tư nhân trong tương lai. Tất nhiên, khi quốc hữu hóa, các Chính phủ được kỳ
vọng sẽ phải bồi thường thỏa đáng cho các chủ sở hữu công ty tư nhân theo luật
lệ quốc tế và trong nước.
Và cũng giống như
với các hiệp định thương mại tự do đa phương khác, CPTPP khẳng định lại cam kết
của các nước thành viên không cố ý lạm dụng các quy định của CPTPP cho các mục
đích công cộng không chính đáng dưới dạng các rào cản thương mại mang tính phân
biệt đối xử bất hợp lý.
Những khác biệt
Do không có sự
tham dự của Mỹ, thành viên chủ chốt của TPP, nên CPTPP tất yếu có những nội
dung khác biệt với của TPP. Cụ thể, có 20 điều khoản của TPP đã bị đình chỉ
trong các lĩnh vực gồm đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, TPP sẽ làm vô hiệu
hóa một số luật và thông lệ của các nước thành viên trong việc bảo vệ các dược
phẩm mới không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc (generic drug). Trong khuôn khổ
của CPTPP, không có yêu cầu nào cho các nước thành viên thay đổi các luật và
thông lệ đối với các dược phẩm mới gồm cả chế phẩm sinh học. Các nước thành
viên cũng đồng ý đình chỉ nghĩa vụ gia hạn thời hạn bản quyền trong những trường
hợp có những sự trì hoãn bất hợp lý trong việc cấp bản quyền cũng như cấp phép
nhập khẩu một loại thuốc nào đó vào các nước thành viên.
Ngoài ra, một số
quy định về sở hữu trí tuệ có trong TPP cũng bị đình chỉ trong CPTPP. Chẳng hạn,
các nước thành viên không còn phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền lên 70
năm (từ 50 năm), và điều này giúp làm giảm chi phí hữu hình cho các nước thành
viên của CPTPP so với TPP. Có tổng cộng 11 quy định về sở hữu trí tuệ của TPP
đã bị đình chỉ trong CPTPP.
Về Cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa Chính phủ và Nhà đầu tư (ISDS), CPTPP vẫn bảo lưu ISDS
nhưng có sự giảm bớt về phạm vi cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế
này để kiện Chính phủ nước thành viên sở tại. Theo đó, trong khuôn khổ CPTPP,
các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ không được phép sử dụng
cơ chế ISDS để kiện Chính phủ nước sở tại nếu đó là tranh chấp về hợp đồng.
Lưu ý rằng công
ty sở tại không được sử dụng ISDS để khởi kiện Chính phủ nước sở tại, mặc dù
công ty sở tại có thể sử dụng ISDS để khởi kiện Chính phủ của một nước thành
viên khác. ISDS chỉ liên quan đến các tranh chấp về các điều khoản đầu tư của
CPTPP.
Và cũng cần lưu ý
rằng các công ty không có quyền quyết định lập ban trọng tài của ISDS. CPTPP có
điều khoản về việc này, theo đó, ban trọng tài có ba thành viên, một do Chính
phủ cử ra, một do nguyên đơn lựa chọn, và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính
phủ và nguyên đơn lựa chọn.
No comments:
Post a Comment