Wednesday, 14 February 2018

Rủi ro tăng trưởng tín dụng cao của Việt Nam (Bài đăng trên TBKTSG, 15/2/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/268887/Rui-ro-tang-truong-tin-dung-cao-cua-Viet-Nam.html


Cuối tháng trước, Moody’s, một trong những tổ chức xếp hạng tín dụng chủ chốt trên thế giới, trong một email trả lời các câu hỏi (của giới báo chí?) và được đăng tải trên một số nguồn như Bloomberg (1), đã đưa ra cảnh báo rủi ro đi kèm với tăng trưởng tín dụng cao cho Việt Nam.

Việc cảnh báo về rủi ro đi kèm với tăng trưởng tín dụng cao ở Việt Nam đã từng được Moody’s đề cập đôi lần mà mới đây nhất là hồi tháng 10 năm 2017 khi họ nâng cấp triển vọng của hệ thống ngân hàng lên thành tích cực từ mức ổn định trước đó. Cũng dịp đó, trong những cuộc thảo luận tại Singapore với người viết về tình hình sức khỏe của hệ thống tài chính Việt Nam, tổ chức này cùng với các tổ chức xếp hạng tín dụng chủ chốt khác như Standard and Poor's và Fitch cũng đều bày tỏ mối quan ngại tương tự cho Việt Nam.

Không phải là vô cớ mà các tổ chức xếp hạng tín dụng nói riêng và các tổ chức quốc tế đa phương nói chung như World Bank và IMF đều chung một mối quan ngại với Việt Nam. Lý do có lẽ nằm ở quan niệm của họ rằng, đối với Việt Nam, thông thường tăng trưởng kinh tế đòi hỏi tăng trưởng tín dụng phải ở mức tương ứng (tỷ lệ thuận). Do đó, khi Chính phủ nhắm mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn thì cũng có nghĩa là họ sẽ phải thực thi một chính sách tiền tệ nới lỏng tương ứng, làm tăng rủi ro bất ổn vĩ mô và nợ xấu.

Trở lại với cảnh báo cuối tháng trước và được trích dẫn bởi Bloomberg, Moody’s nhận định rằng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ có thể tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ trung lập thiên về nới lỏng trong bối cảnh Chính phủ tiếp tục chú trọng hơn đến thúc đẩy tăng trưởng. Theo Moody’s, chính sách tiền tệ nới lỏng hơn sẽ làm xói mòn ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng cao. Nếu tăng trưởng tín dụng được đẩy cao hơn nữa thì nó sẽ làm tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng do làm suy yếu cơ sở vốn của các ngân hàng.

Do Moody’s không cho biết cụ thể thêm nên khó có thể biết cơ sở cũng như bằng chứng để Moody’s đưa ra cảnh báo rủi ro tăng trưởng tín dụng cao để nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Nhưng Bloomberg trích dẫn ý kiến của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng tăng trưởng kinh tế năm nay có thể đạt tốc độ như của năm 2017 là 6,8%, cao hơn so với mục tiêu Chính phủ đặt ra là 6,7%, như để minh họa cho ý của Moody’s rằng Chính phủ đang tiếp tục cố gắng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ở một vế khác, cũng không rõ Moody’s dựa vào đâu để nhận định rằng NHNN có thể sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ thiên nới lỏng. Trong khi đó, Bloomberg nêu ra rằng tốc độ tăng trưởng cho vay năm 2017 là 18,2% và “NHNN dự đoán” tăng trưởng cho vay năm nay ở mức 17%. Thêm vào đó, Bloomberg cũng trích dẫn cảnh báo của World Bank hồi tháng 12 rằng tăng trưởng tín dụng cao sẽ khuyến khích cho vay các lĩnh vực rủi ro và làm xấu đi chất lượng tài sản. Bằng việc đưa ra những số liệu và nhận định này dường như Bloomberg muốn chứng minh rằng đang có xu hướng nới lỏng tiền tệ ở Việt Nam kèm theo đó là những hậu quả tiêu cực, phù hợp với cảnh báo của Moody’s.

Tuy nhiên, nếu những con số và dự đoán như trên là đúng thì người ta phải thấy rằng tình hình thực ra đang không diễn biến theo chiều hướng rủi ro hơn, nếu không muốn nói ngược lại là đang được kiểm soát theo hướng tốt hơn, theo đúng định hướng chính sách tiền tệ của NHNN được trích dẫn bởi Bloomberg là sẽ “quản lý tăng trưởng tín dụng một cách linh hoạt và thận trọng để hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi vẫn hạn chế được rủi ro trong một số ngành kinh tế”.

Cụ thể hơn, rõ ràng là con số tăng trưởng tín dụng 18,2% đạt được trong năm 2017 là thấp hơn đáng kể mục tiêu ít nhất là 21-22% mà Thủ tướng Chính phủ đặt ra trước đó, trong năm 2017, cho NHNN. Điều này chứng tỏ sự thận trọng đáng ghi nhận của NHNN khi đã không cố gắng “ép” tín dụng của hệ thống ngân hàng phải tăng nhanh hơn nữa theo ý chí của Chính phủ. Nói cách khác, tuy chính sách tiền tệ của NHNN vẫn có xu hướng nới lỏng nhưng sự nới lỏng là có mức độ, được dựa trên những căn cứ xác đáng như diễn biến của lạm phát và lãi suất. Và cũng cần lưu ý thêm rằng tăng trưởng tín dụng năm 2017 cũng chỉ tương đương như năm 2016, mặc dù (nhu cầu tăng trưởng tín dụng để thúc đẩy) tăng trưởng kinh tế là cao hơn nhiều so với năm 2016.

Sang năm 2018, như trích dẫn của Bloomberg, NHNN còn thể hiện sự thận trọng hơn nữa khi “dự báo” tăng trưởng tín dụng chỉ là 17% mặc dù tăng trưởng kinh tế năm nay, nếu đúng như mục tiêu mà Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nêu  ra, vẫn bằng năm 2017. Đó là chưa kể khả năng năm nay lạm phát ở Việt Nam sẽ đạt mức cao hơn năm trước (ít nhất là do yếu tố giá cả thế giới đã và đang gia tăng song hành với một đồng đô la Mỹ suy yếu) và điều này sẽ buộc NHNN – được Quốc hội “trói” bằng chỉ tiêu kiềm chế lạm phát – phải thận trọng với tăng trưởng cung tiền hơn nữa (và có nghĩa là hạ thấp tốc độ tăng trưởng tín dụng hơn nữa).

Như vậy, rõ ràng là dường như đang diễn ra xu hướng có thể coi là “nghịch lý” ở Việt Nam trong nhiều năm qua, ít nhất là nhìn từ góc độ các con số thống kê chính thức, là tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng cao hơn còn tốc độ tăng trưởng tín dụng lại có xu hướng giảm tốc, không nhất thiết giống như mối quan ngại của Moody’s và các tổ chức khác. Và điều này cần được tiếp tục nghiên cứu, mổ xẻ để Chính phủ có thêm cơ sở tiếp tục điều hành nền kinh tế theo đúng xu hướng tích cực này.

 ___________

1. Xem trong đường dẫn sau: https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-01-28/moody-s-cautions-vietnam-against-easing-monetary-policy-further

Hoặc: http://www.businesstimes.com.sg/government-economy/moodys-cautions-vietnam-against-easing-monetary-policy-further

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).