Monday, 5 February 2018

Nên đặt chỉ tiêu an toàn hoạt động (Bài đăng trên TBKTSG, 5/2/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/268604/Nen-dat-chi-tieu-an-toan-hoat-dong.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã có văn bản yêu cầu các ngân hàng hạn chế cho vay vào lĩnh vực bất động sản, xây dựng, kinh doanh chứng khoán để hạn chế rủi ro và dành vốn cho sản xuất, kinh doanh, đáp ứng kịp thời vốn đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Đây không phải là lần đầu tiên NHNN có văn bản nhắc nhở các ngân hàng. Trước đây, NHNN đã từng phát đi văn bản yêu cầu các ngân hàng hạn chế cho vay vào các lĩnh vực mà theo họ là rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán, và thậm chí các dự án B0T và BT.
Đứng từ góc độ của cơ quan chức năng, sự nhắc nhở của NHNN là điều cần thiết để sớm “cảnh tỉnh” các ngân hàng đang say sưa rót vốn vào những lĩnh vực có rủi ro cao nhưng cũng là “màu mỡ” nhất giúp các ngân hàng báo lãi những con số ấn tượng, liên tục đẩy giá cổ phiếu ngành lên những nấc thang mới.
Nhưng đứng từ góc độ các ngân hàng, không phải là không có lý khi nhiều nhà quản lý tin rằng họ đang đi đúng hướng, tuy đã và đang đẩy mạnh cho vay nhưng không xem nhẹ chất lượng tín dụng và luôn tăng cường kiểm soát rủi ro. Bằng chứng rõ ràng là tuy tăng trưởng tín dụng được duy trì ở mức cao nhưng tỷ lệ nợ xấu nội bảng luôn được kìm giữ dưới mức 3% như đã được xác nhận bởi NHNN.
Trong bối cảnh mọi chuyện xem ra đang diễn tiến tốt đẹp, cần phải nhìn nhận hành động cảnh tỉnh của NHNN như thế nào cho hợp lý?
Ngoài quan niệm một cách mặc định rằng bất động sản và chứng khoán là những lĩnh vực có nhiều rủi ro hơn là những lĩnh vực khác của nền kinh tế, có lẽ NHNN đang nhìn thấy những triệu chứng của những cơn sốt bong bóng trên thị trường bất động sản và chứng khoán gần đây. Không cần phải nói thì cũng sẽ thấy rõ tác hại ghê gớm của những đợt “xì hơi” bong bóng bất động sản và chứng khoán để lại cho hệ thống ngân hàng ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Và cũng có thể NHNN đang lo ngại các ngành và lĩnh vực ưu tiên vay vốn đang trở nên “khô khát” khi nguồn tín dụng đáng lẽ dành cho họ lại chảy mạnh vào các lĩnh vực rủi ro hơn nhưng có lợi nhuận lớn hơn như bất động sản và chứng khoán.
Những lo ngại trên của NHNN hoàn toàn có thể là đúng đắn, có cơ sở. Nhưng điều đáng nói ở đây là cách thức họ chuyển tải thông điệp của mình đến thị trường. Nếu chỉ dùng hình thức gửi văn bản, đề ra những yêu cầu định tính khá chung chung như “hạn chế tập trung cho vay vào lĩnh vực bất động sản”, “phải thường xuyên rà soát, đánh giá và theo dõi tiến độ...”, “phải kiểm soát tốt chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả công tác xét duyệt hồ sơ...”, “phải giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn...”, và “phải chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng ưu tiên tập trung vốn cho...” thì e rằng sẽ nhận được hàng loạt lời đáp giống nhau từ các ngân hàng rằng họ đang thực hiện rất tốt những yêu cầu này. Đơn giản là bởi một khi các yêu cầu đưa ra là định tính thì rất khó bắt bẻ các câu trả lời mang tính định tính về việc thực hiện là đã thỏa đáng hay chưa.
Do đó, thay vì nhắc nhở một cách chung chung và khó có thể trừng phạt các ngân hàng nếu họ không theo đúng ý đồ của mình, NHNN với tư cách và vị thế của một cơ quan quản lý nhà nước cần dùng các chỉ tiêu cụ thể, tốt nhất là mang tính định lượng để định hướng dòng chảy tín dụng trong nền kinh tế theo chủ đích và buộc các ngân hàng tuân thủ nghiêm túc nếu không muốn bị phạt.
Việc NHNN có thể cân nhắc thực hiện trước tiên là “siết” chặt hơn tăng trưởng tín dụng cho toàn nền kinh tế. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng thấp hơn sẽ làm giảm khả năng tăng trưởng nóng của nền kinh tế, nhất là trong các ngành có rủi ro cao, vốn là một bài học kinh nghiệm sâu sắc rút ra từ thực tiễn chục năm qua.
Cũng có thể thấy rằng, việc quản lý tăng trưởng tín dụng mặc dù theo luật là nhiệm vụ của NHNN nhưng đôi khi NHNN không được toàn quyền quyết định điều này vì còn phải chịu sức ép từ Chính phủ, vốn rất coi trọng tăng trưởng tín dụng như một động lực cho tăng trưởng kinh tế. Còn thêm khả năng nữa là tuy tín dụng chung bị thắt chặt nhưng các ngân hàng thương mại vẫn cứ say sưa tập trung tín dụng vào bất động sản mà “quên” các ngành, các lĩnh vực ưu tiên.
Đối với những trường hợp trên, NHNN có thể hành động theo hướng thắt chặt các tiêu chuẩn chung về chất lượng hoạt động của ngân hàng như tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu, trần sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn... buộc các ngân hàng thương mại phải cẩn trọng hơn trong quyết định đổ bao nhiêu vốn vào bất động sản là đủ mà không làm tăng quá mức các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng đến mức vi phạm các tiêu chuẩn hoạt động an toàn mà NHNN đặt ra để rồi bị phạt nặng.
Ngoài ra, nếu muốn hạn chế vốn tín dụng vào những lĩnh vực nên trên, NHNN có thể xem xét thêm các hạn chế định lượng như giới hạn tỷ trọng tín dụng của (mỗi) ngân hàng thương mại (NHTM) cấp cho các lĩnh vực này không quá X% tổng tài sản hoặc tổng dư nợ của họ (và tỷ lệ X này có thể khác nhau với mỗi ngân hàng). Hoặc ngược lại, NHNN có thể yêu cầu mỗi ngân hàng phải dành tối thiểu Y% vốn huy động để cho vay các lĩnh vực ưu tiên.
Cũng cần lưu ý thêm rằng NHNN đã giao chỉ tiêu hạn mức tín dụng cho từng ngân hàng trong từng năm xét trên tình hình hoạt động và chất lượng tín dụng của họ. Nếu kết hợp với quy định giới hạn định lượng tín dụng của mỗi NHTM được cấp cho các lĩnh vực nhiều rủi ro cũng như hạn mức tín dụng tối thiểu phải cấp cho các lĩnh vực ưu tiên như đề xuất ở trên thì NHNN sẽ hạn chế được việc các NHTM cho vay quá mức vào các lĩnh vực rủi ro cao, đồng thời vẫn bảo đảm nguồn vốn tín dụng rót đủ cho các lĩnh vực ưu tiên.
Cuối cùng, cũng không nên quên rằng NHNN không phải là cơ quan quản lý nhà nước (duy nhất) có nhiệm vụ khuyến khích ngành nào phát triển, ngành nào cần hạn chế. Việc này phải là trách nhiệm của và sẽ được làm tốt hơn bởi (hoặc có sự phối hợp với) các cơ quan quản lý nhà nước khác. Ví dụ, Bộ Tài chính có thể dùng chính sách thuế, còn Bộ Xây dựng với các quy định chặt chẽ về môi trường và quy hoạch xây dựng có thể giảm bớt nguy cơ tăng trưởng bong bóng trong lĩnh vực chứng khoán, bất động sản và xây dựng.
Tóm lại, nếu không cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu an toàn hoạt động giao cho các ngân hàng thì những chỉ đạo và yêu cầu chung chung như hiện nay của NHNN chỉ có tác dụng thể hiện rằng họ cũng có quan tâm và lo ngại đến sự tăng trưởng nóng của một số ngành và... thế thôi!

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).