Thursday, 31 January 2019

Xuất siêu hay nhập siêu không do Bộ Công Thương quyết (Bài đăng trên TBKTSG, 31/1/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/284566/xuat-sieu-hay-nhap-sieu-khong-do-bo-cong-thuong-quyet-.html

 Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 của ngành công thương ngày 17-1, Bộ Công Thương dự kiến xuất khẩu đạt khoảng 265 tỉ đô la Mỹ (tăng khoảng 8-10% so với năm 2018), còn nhập khẩu khoảng 268 tỉ đô la Mỹ (tăng khoảng 11,7% so với năm 2018).
Như vậy, thay vì xuất siêu liên tiếp như vài năm trở lại đây, Việt Nam được dự báo sẽ nhập siêu khoảng 3 tỉ đô la Mỹ trong năm nay.
Thủ tướng không chấp nhận con số 3 tỉ đô la Mỹ
Lý giải cho dự báo này, Bộ Công Thương cho rằng nhập khẩu sẽ tăng cao bởi xuất khẩu được dự báo tiếp tục duy trì tăng trưởng, đặc biệt là ở những ngành hàng mà Việt Nam còn phụ thuộc vào nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, linh kiện phụ tùng của nước ngoài. Do vậy, dự báo nhập khẩu nhóm hàng này tiếp tục tăng.
Ngoài ra, với việc thực thi các FTA mới, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), sẽ tạo ra làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam của các doanh nghiệp trong và ngoài nước để tận dụng cơ hội từ các thị trường này. Việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị phục vụ cho các dự án và mua nguyên vật liệu cho sản xuất sẽ gia tăng...
Một số lý do khác cũng được viện dẫn ra như giá xuất khẩu nông sản và sản lượng xuất khẩu nông sản không thuận lợi, cạnh tranh tăng lên từ các nước xuất khẩu khác, các nước nhập khẩu tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe...
Phát biểu tại hội nghị nói trên, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho rằng Bộ Công Thương đặt mức nhập siêu 3 tỉ đô la Mỹ trong năm 2019 là không thể chấp nhận được sau ba năm liên tục xuất siêu với con số ấn tượng (nguồn: baodientu.chinhphu.vn ngày 17-1). Trước ý kiến của Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã tiếp thu và trình bày rằng kế hoạch đã đặt ra rồi nên bộ xin không sửa nữa nhưng mục tiêu của ngành vẫn luôn cố gắng vượt trên kế hoạch đã đặt ra.
Xuất siêu hay nhập siêu không dễ dự báo
Trước tiên có thể nói Bộ Công Thương đã mạnh dạn đưa ra một con số dự báo cụ thể cho một vấn đề cực kỳ phức tạp được quyết định bởi nhiều yếu tố trong và ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam.
Nhìn chung, những lý do mà họ đưa ra để dự báo mức nhập siêu 3 tỉ đô la Mỹ hoàn toàn mang tính định tính. Ví dụ, đúng là xuất khẩu tăng sẽ kéo theo nhập khẩu tăng. Nhưng do chi phí nhập khẩu chỉ là một cấu thành trong giá thành và giá xuất khẩu nên xuất khẩu tăng về nguyên tắc sẽ không tạo ra nhập siêu vì giá trị xuất khẩu một mặt hàng nào đó thường luôn lớn hơn giá trị nhập khẩu các nguyên vật liệu tạo ra sản phẩm đó (nói cách khác, không doanh nghiệp nào lại “dại dột” sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó với giá thấp hơn giá mua nguyên vật liệu).
Tương tự, dù có làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam để tận dụng cơ hội FTA mới dẫn đến nhập khẩu tăng, nhưng ở chiều ngược lại, các FTA mới này cũng làm tăng nhu cầu nhập khẩu của các nước đối tác với hàng hóa khác của Việt Nam bởi thuế quan với hàng loạt hàng hóa sẽ được giảm song phương theo nguyên tắc “có đi có lại”, kết quả là cán cân thương mại tổng thể của Việt Nam có thể không nhất thiết nghiêng về phía nhập siêu.
Hoặc với lý do là giá và lượng xuất khẩu cũng như sự cạnh tranh tăng lên từ đối thủ, cũng còn quá nhiều điều không chắc để kết luận theo hướng tiêu cực. Chẳng hạn, xuất khẩu của Việt Nam có cạnh tranh được hay không đôi khi còn phụ thuộc vào những yếu tố như tỷ giá (và, do đó, lãi suất) nên không chỉ nhìn về phía đối thủ rồi kết luận rằng Việt Nam sẽ bị thua thiệt.
Chuyện về các đối tác nâng cao tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường cũng vậy, bởi chuyện này đã đang và sẽ tiếp tục xảy ra như là “chuyện thường ngày”, không chỉ là hiện tượng riêng có cho năm 2019 nên cũng không thể dựa vào đây để kết luận rằng xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng từ năm nay.
Tuy nói như trên nhưng điều rút ra ở đây là không thể dự đoán một con số xuất khẩu và nhập khẩu cụ thể nào đó với mức độ tin cậy cao cho bất cứ thời gian nào được.
Trong khi đó phản ứng của Bộ Công Thương trước ý kiến của Thủ tướng cũng là một điều đáng nói. Câu trả lời của bộ rằng “kế hoạch đã đặt ra rồi nên bộ xin không sửa nữa nhưng mục tiêu của ngành vẫn luôn cố gắng vượt trên kế hoạch đã đặt ra” có nghĩa là bộ này cho rằng xuất siêu hay nhập siêu là vấn đề của bộ, và (nếu cố gắng) họ có thể đảo ngược tình hình.
Nói như vậy là không thỏa đáng. Bởi, như trên đã nói, một mình Bộ Công Thương không thể quyết định được chuyện Việt Nam sẽ xuất khẩu bao nhiêu, nhập khẩu bao nhiêu. Và cũng như đã đề cập qua, giá và lượng xuất khẩu, nhập khẩu còn tùy thuộc vào cả tỷ giá và lãi suất, là những thứ thuộc phạm vi kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước.
Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước có hướng nới lỏng thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ được kích thích và nhập khẩu sẽ bị hạn chế. Ngoài ra, các bộ như Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc các bộ chuyên ngành khác nếu làm tốt vai trò của mình thì sẽ giúp củng cố chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của các nước đối tác nhập khẩu.
Tóm lại, nếu có sự phối hợp nhịp nhàng và tích cực của tất cả các cơ quan hữu trách thì chuyện nhập siêu về nguyên tắc sẽ khó mà xảy ra. Do đó, thay vì đưa ra một dự báo dễ gây ra phản ứng trái chiều như vừa qua, Bộ Công Thương cần cam kết sẽ nỗ lực phối hợp với các bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp để đảm bảo duy trì một cán cân thương mại lành mạnh cho Việt Nam trong năm nay và các năm tới, đúng với vai trò và trách nhiệm của mình.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).