Tuesday, 29 January 2019

Nên kết thúc thí điểm xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 (Bài đăng trên TBKTSG, 30/1/2019, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/td/284571/nen-ket-thuc-thi-diem-xu-ly-no-xau-theo-nghi-quyet-42-.html


Từ tuần qua nhiều ngân hàng đã và đang tiếp tục cập nhật kết quả kinh doanh của mình trong năm 2018 với điểm nổi bật là lợi nhuận trước thuế đã tăng mạnh so với năm trước đến nhiều chục phần trăm. Điểm đáng lưu ý là bối cảnh của sự tăng trưởng lợi nhuận này là tăng trưởng tín dụng cả năm nhìn chung đã bị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khống chế chặt chẽ so với năm trước để đảm bảo mục tiêu ổn định vĩ mô. Bởi vậy, yếu tố góp phần vào sự cải thiện lợi nhuận này không thể không kể đến tăng trưởng doanh thu ngoài lãi (thu từ dịch vụ) và đặc biệt là từ giảm thiểu, xử lý và thu hồi nợ xấu.

Cụ thể hơn, Agribank, một ngân hàng theo báo cáo đã “bất ngờ” báo lãi 7.500 tỷ đồng, vượt xa kế hoạch là 5.700 tỷ đồng (không rõ vượt bao nhiêu % so với năm 2017) đã thu hồi được 12 nghìn tỷ đồng nợ xấu, đẩy tỷ lệ nợ xấu xuống còn 1,51%. BIDV, một ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước khác, thì công bố con số lợi nhuận 9.625 tỷ đồng bên cạnh “thành công vượt bậc trong xử lý nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết 42 của Quốc hội”. Vietcombank tuy dường như không báo cáo về việc thu hồi và xử lý nợ xấu nhưng cũng công bố mức nợ xấu thấp là 0,97% trong khi dư quỹ dự phòng rủi ro đạt gần 10.500 tỷ đồng và tỷ lệ bao phủ nợ xấu nội bảng là 170%.

Với một số ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân đã cập nhật kết quả kinh doanh năm 2018 như SHB, Techcombank, MB, Kienlongbank, và VIB thì tăng trưởng lợi nhuận ấn tượng năm 2018 cũng có sự góp mặt rõ ràng của việc khống chế, xử lý nợ xấu. SHB đã chủ động mua lại trước hạn khoảng 1.300 tỷ đồng nợ xấu đã bán cho VAMC trong năm 2018 và đã trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu hơn 5.000 tỷ đồng. Các ngân hàng khác thì nhìn chung đều báo cáo tỷ lệ nợ xấu thấp, quanh quẩn 1% và/hoặc đang có kế hoạch mua lại nợ xấu.

Công của Nghị quyết 42?

Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) có hiệu lực từ tháng 8/2017. Nghị quyết này có mục tiêu pháp điển hoá những quy định cụ thể về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng, nâng cao vai trò, năng lực của VAMC. Bên cạnh đó, Nghị quyết hướng tới xử lý các vướng mắc, khó khăn liên quan đến hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm các khoản nợ của tổ chức tín dụng, tạo cơ chế đồng bộ, khả thi, tăng cường kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm các khoản nợ xấu của TCTD...

Thực tế cho thấy một số trong những mục tiêu trên vẫn chưa đạt được. Trong lần cập nhật tình hình triển khai Nghị quyết 42 gân đây nhất là vào tháng 8/2018, tức một năm sau ngày nó có hiệu lực, Nghị quyết được cho là đã là phát đi thông điệp bảo vệ đến cùng quan hệ có vay, có trả, tạo tiền đề cho VAMC và TCTD thu hồi nợ. Thông qua việc thu giữ, phát mại tài sản bảo đảm cũng như thái độ hợp tác của khách vay, đã khẳng định được quyền của chủ nợ - điều mà các tổ chức tín dụng mong mỏi đã lâu. Đồng thời,  Nghị quyết tái lập quyền bình đẳng về dân sự là quyền thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ, qua đó tác động tới thái độ khách hàng trong xử lý nợ xấu (1).

Trong khi đó, việc triển khai Nghị quyết vẫn còn nhiều vướng mắc như đã được chỉ ra vào dịp trên, và không rõ là đã được giải quyết ra sao vào thời điểm hiện tại. Một trong những vướng mắc điển hình là tuy Nghị quyết 42 cũng có nội dung rút gọn quá trình tố tụng và xử lý tranh chấp tài sản đảm bảo, nhưng trên thực tế hơn 2.000 vụ việc liên quan đến việc đòi nợ của VAMC chưa có vụ nào được xử lý theo hình thức rút gọn này. Ngoài ra, còn có những vướng mắc như sự phối hợp chưa tốt giữa các cơ quan hữu quan...

Như vậy, có thể thấy những cái “được” của Nghị quyết 42 khá là chung chung, mang tính danh nghĩa, trong khi những “điểm nghẽn” quan trọng thì vẫn chưa được giải quyết, ít nhất là cho đến thời điểm hiện tại là thời điểm chưa thấy có thêm báo cáo cập nhật về “công trạng” gì khác của Nghị quyết 42. Nói cách khác, việc xử lý nợ xấu cho đến nay, kể cả sau khi Nghị quyết 42 được triển khai, vẫn chủ yếu là do nỗ lực của bản thân các ngân hàng có nợ xấu.

Cũng cần nói thêm là tuy VAMC cũng tự mình xử lý được một phần nợ xấu nhưng có một điều không thể phủ nhận là kết quả này là do nợ xấu mà VAMC mua từ các TCTD phần nhiều là nợ “tuyển”, nợ “đẹp”. Nếu để TCTD xử lý thì sớm muộn họ cũng tự xử lý được bởi cơ chế xử lý của VAMC hầu như cũng không có gì ưu việt, hiệu quả hơn so với các TCTD. Và thực tế cho thấy nhiều TCTC, như Vietcombank, Agribank, SHB, Techcombank, MB, VIB, và ACB..., đã chủ động và tích cực mua lại (hết) nợ xấu từ VAMC, đồng thời trích lập dự phòng (cách xử lý nợ xấu chủ yếu tại các TCTD).

Xử lý... Nghị quyết 42

Từ phân tích trên, điều có thể rút ra là cần nhanh chóng tổng kết và kết thúc thí điểm việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 mà không đợi đến thời điểm Nghị quyết này hết hiệu lực vào tháng 8/2022. Nhìn chung, 5 năm là một thời gian quá dài cho một thí điểm nào đó tương tự. Những cái “được” trên danh nghĩa của Nghị quyết 42 nếu đã phát huy tác dụng thì cũng đã phát huy rồi. Còn những “điểm nghẽn” của Nghị quyết này nếu đã có thể giải quyết, khắc phục được thì cũng không cần phải chờ đến hơn 3 năm nữa mới lộ diện, mới xử lý được, xử lý xong. Những “điểm nghẽn” còn lại như chuyện không phối hợp tốt giữa các cơ quan hữu trách thì rõ ràng là có hay không Nghị quyết 42 cũng không tạo ra khác biệt, mà đây là căn bệnh chung, nan y trong cả nền kinh tế dù có đầy rẫy những quy định pháp luật có liên quan.

Ngược lại, nếu cứ “treo” Nghị quyết 42 cho đến khi hết hiệu lực trong khi những bất cập của nó tiếp tục không được xử lý sớm và hữu hiệu thì các nguồn lực liên quan tiếp tục bị phân tán, lãng phí bởi cơ chế xử lý nợ xấu vẫn... xấu, vẫn bất cập, không góp phần thúc đẩy tốc độ xử lý và kiềm chế nợ xấu.

(1) https://baomoi.com/xu-ly-no-xau-theo-nghi-quyet-42-chi-co-vai-vu-tranh-chap-duoc-xu-ly-theo-thu-tuc-rut-gon-tai-toa/c/27550212.epi

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).