Sunday, 28 April 2019

Tự ăn đuôi mình (Bài đăng trên TBKTSG, 28/4/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/288025/tu-an-duoi-minh-.html


Từ mấy năm nay đã phổ biến tình trạng vốn trái phiếu Chính phủ được Kho bạc Nhà nước (KBNN) huy động xong nhưng không giải ngân hết được cho đầu tư công, dẫn đến tình trạng “thừa” vốn, buộc KBNN phải gửi tạm thời vào hệ thống ngân hàng lấy chút lãi tiền gửi trong khi ngân sách vẫn buộc phải trả lãi cao hơn cho nhà đầu tư mua trái phiếu KBNN – một việc được ví von như hình ảnh một con rắn tự ăn đuôi mình.  

Theo giải thích của các bên liên đới thì nguyên nhân “thừa” vốn tại KBNN là do giải ngân đầu tư công chậm. Chẳng hạn, mới đây Bộ Tài chính cho biết tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công quý I/2019 chỉ đạt khoảng 11% dự toán. Có 4 bộ, ngành và 21 địa phương có số giải ngân đạt hơn 20%, có 27 bộ, ngành và 1 địa phương gần như chưa giải ngân được kế hoạch vốn (tỷ lệ giải ngân đạt dưới 1%). Lưu ý thêm rằng năm nào cũng một vài lần hết Thủ tướng rồi đến Phó Thủ tướng thay nhau đôn đốc, nhắc nhở, thúc giục và thậm chí cả đe sẽ kỷ luật các địa phương và cơ quan liên đới giải ngân đầu tư công chậm mà tình hình vẫn không chuyển biến đáng kể.

Thực ra, giải thích như trên là không trúng vấn đề. Cứ cho là giải ngân đầu tư công chậm là căn bệnh trầm kha, không thể khắc phục được trong cơ chế quản lý hiện hành. Lẽ ra như vậy thì KBNN cần phải “thích nghi” với hiện trạng này để chỉ huy động một số vốn trái phiếu tương đương với số vốn đầu tư công dự kiến chắc chắn sẽ được giải ngân trong một khoảng thời gian nhất định.

Nguyên tắc trên nghe thì đơn giản nhưng là nguyên tắc xương sống trong quản lý tài chính công của nhiều quốc gia. Chẳng hạn, Hiệp hội Viên chức Tài chính Chính phủ (GFOA), hiệp hội quy tụ các hội viên là các viên chức trong ngành tài chính công của Mỹ và Canada với sứ mệnh thúc đẩy trình độ quản lý tài chính công của Chính phủ trung ương và địa phương, đã có những khuyến nghị rõ ràng về việc phát hành trái phiếu tài trợ cho chi tiêu công, trong đó có các dự án đầu tư công.

Cụ thể, theo GFOA, cơ quan phát hành trái phiếu cần phải xác định và phối hợp tốt với những người/bên có trách nhiệm giám sát và quản lý các công việc như chi tiêu, dự báo dòng tiền, tiến độ đầu tư và tuân thủ có liên quan đến dự án đầu tư công (1). GFOA đặc biệt lưu ý phải có các lựa chọn về giai đoạn phát hành trong thời gian xây dựng dự án để giảm thiểu thiệt hại tài chính cho ngân khố do tiền lãi ngân khố phải trả cho trái chủ lớn hơn lãi cho vay lại (ví dụ, gửi tại ngân hàng thương mại).

Như vậy, với trường hợp của Việt Nam, tiền đọng tại KBNN buộc phải đem gửi ngân hàng, trước hết cần chỉ ra rằng KBNN với tư cách là cơ quan phát hành trái phiếu đã không phối hợp tốt với các cơ quan chức năng ở các bộ, ngành và địa phương có dự án đầu tư công để đánh giá tình hình triển khai dự án đầu tư công và xác định được tiến độ phát hành cũng như số vốn trái phiếu phát hành cần thiết tương ứng, dẫn đến tình trạng lượng trái phiếu phát hành thường xuyên không khớp và lớn hơn tiến độ giải ngân các dự án đầu tư công tại các bộ, ngành và địa phương.

Có thể sẽ có ý kiến bào chữa rằng KBNN chỉ là nơi thực hiện nhiệm vụ huy động vốn (phát hành trái phiếu) đại diện cho Chính phủ, mà cụ thể là Bộ Tài chính. Bộ này mới là nơi có trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để lập kế hoạch thu xếp vốn, trong đó có phát hành trái phiếu, khi nào và bao nhiêu, để KBNN thực hiện.

Dù thực tế đúng như vậy thì bản chất sự việc không thay đổi. Rõ ràng, đã tồn tại từ lâu chuyện cơ quan nào cũng chỉ lo việc của mình mà không (cần) bận tâm đến việc phối hợp với các cơ quan khác có liên quan trong lĩnh vực mình phụ trách. Nếu đây là lỗ hổng trong các luật liên quan về nhiệm vụ và quy chế làm việc của Bộ Tài chính, KBNN và các bộ, ngành, địa phương khác thì cần phải nhanh chóng sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc và phối hợp của các đơn vị này, buộc họ phải có sự hợp tác, phối hợp nhịp nhàng, kịp thời. Kết quả của sự tuân thủ pháp luật sẽ được thể hiện và đánh giá bởi chính tỷ lệ đọng vốn trái phiếu trên tổng số lượng trái phiếu phát hành. Theo đó, chừng nào còn tiếp diễn tình trạng thừa đọng vốn trái phiếu KBNN vượt trên một tỷ lệ trần ấn định nào đó thì Bộ Tài chính sẽ phải chịu trách nhiệm đầu tiên mà không thể đổ lỗi do những lý do khách quan hoặc cho một bên thứ ba nào đó.

Ngược lại, nếu pháp luật hiện hành đã có đầy đủ các quy định và quy chế phối hợp liên quan đến phát hành, giải ngân vốn trái phiếu KBNN cho các dự án đầu tư công thì xem ra căn bệnh không giải ngân được vốn trái phiếu là vô phương cứu chữa, bởi, cũng như vô vàn căn bệnh hiện tại khác trong cơ chế hiện thời, nguyên nhân sẽ được quy về lỗi... hệ thống!

(1)    https://www.gfoa.org/investment-and-management-bond-proceeds

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).