Nhằm nâng cao tín
an toàn và sức khỏe của hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ năm 2013, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã triển khai lộ trình thực hiện chuẩn mực an toàn vốn theo Basel
II. Theo đó, NHNN đặt ra mục tiêu có 10 ngân hàng thương mại (NHTM) cụ thể được
chọn thí điểm để triển khai áp dụng thành công các chuẩn mực Basel II vào đầu
năm 2020. Tiếp đó, vào đầu năm nay, NHNN cho biết đang tiếp tục thẩm định và
xác nhận thêm 7 thành viên mới triển khai thành công Basel II ngay trong năm
2019, trước thời hạn quy định 2020 (1).
Tuy vậy, cho đến
thời điểm hiện tại, mới chỉ có tổng cộng 6 ngân hàng là Vietcombank, VIB, OCB,
MB, VPBank, và TPBank được NHNN công nhận, cho phép áp dụng trước thời hạn các
quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN (được
xây dựng dựa theo Basel II). Đáng lưu ý là OCB, VPBank và TPBank không phải là
ngân hàng nằm trong số 10 ngân hàng ban đầu mà NHNN chọn thí điểm thực thi
Basel II. Như vậy, còn ít nhất là 7 ngân hàng được chọn thí điểm nhưng vẫn chưa
đạt chuẩn Basel II, trong khi từ nay đến thời hạn đầu năm 2020 thời gian không
còn nhiều.
Trước khả năng “vỡ
kế hoạch” cán đích thực hiện chuẩn mực Basel II, NHNN có xu hướng mở rộng thêm
đối tượng chưa phải áp dụng Thông tư 41 là một số ngân hàng chưa đáp ứng quy định
CAR, ngoài các ngân hàng được đặt vào diện kiểm soát đặc biệt.
Việc “đặc cách” lùi
thời hạn áp dụng Basel II được coi là phù hợp và tất yếu trước đòi hỏi thực tế,
chủ yếu trên cái nghĩa là không lùi thì nếu “xử” mạnh tay sẽ gây tình trạng
ngưng trệ hoạt động, gây bất lợi cho hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến
nền kinh tế.
Cách tư duy trên
đã xem nhẹ rủi ro “nhờn” chính sách của các ngân hàng. Rõ ràng là người ta hy vọng
rằng nếu được cho thêm thời gian thì các ngân hàng hiện chưa đạt chuẩn mực
Basel II sẽ (phải) đạt trong một thời hạn trong tương lai. Nhưng điều gì sẽ xảy
ra nếu các ngân hàng “dưới chuẩn” này tin rằng NHNN sẽ không dám làm mạnh tay với
họ khi họ tiếp tục “nhỡ” đích một lần nữa trong tương lai, đặc biệt với những
ngân hàng “quá to để cho phá sản”, chủ yếu là những NHTM có vốn nhà nước?
Cần lưu ý rằng
các NHTM được chọn thí điểm áp dụng Basel II thường là những NHTM mà NHNN cho rằng
có nhiều cơ hội thực hiện thành công hơn các NHTM khác. Họ cũng đã có cả một lộ
trình dài nhiều năm để chuẩn bị. Vậy mà vẫn thất bại.
Trong khi đó, một
số các NHTM khác có hoặc không có trong danh sách 10 ngân hàng thí điểm vẫn
thành công trước hạn. Điều này cho thấy vấn đề nằm phần lớn ở sự quyết tâm, tự
nguyện, tự giác, coi việc đạt chuẩn Basel II là vấn đề không phải chỉ là để lấy
“số má” với thiên hạ, mà là vấn đề sát sườn, sống còn với hoạt động kinh doanh
của những ngân hàng đã thành công với Basel II. Chắc chắn họ không có cái rủi
ro đạo đức là không làm được thì NHNN cũng không dám làm gì mình.
Do đó, với những
ngân hàng (có khả năng) không đạt mốc đầu năm 2020 và những cái mốc sau đó, cần
được mạnh tay xử lý như hạn chế tăng trưởng tín dụng tối đa, kỷ luật ban lãnh đạo
ngân hàng, đặt dưới diện kiểm soát đặc biệt với lộ trình nghiêm ngặt và nghiêm
khắc thực hiện cho bằng được chuẩn mực Basel II. Làm được như vậy sẽ vừa không
những bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và sự an toàn, phát triển của hệ
thống, mà còn bảo đảm được sự công bằng với những NHTM đã cố gắng và thành công
trước/đúng hạn.
Động thái xử lý
quyết liệt, nghiêm khắc như đề xuất bên trên của NHNN sẽ còn có tác dụng rất quan
trọng là thu hẹp khoảng cách quá lớn trong chuẩn mực hoạt động của hệ thống
ngân hàng Việt Nam với khu vực và thế giới, xóa đi hình ảnh lạc lõng, tụt hậu của
ngân hàng Việt Nam trong con mắt bên ngoài. Bởi, trong khi Việt Nam vẫn còn
đang loay hoay với Basel II thì các nước khu vực và thế giới đã tích cực thực
thi tiêu chuẩn Basel III kể từ những năm đầu thập kỷ này và được dự kiến hoàn
thành vào đầu năm 2022. Chuẩn mực Basell III cao hơn nhiều so với Bassel II, thể
hiện ở tiêu chí vốn cấp 1 khắt khe hơn, phải có các biện pháp đối phó với các
biến động chu kỳ (ví dụ, phải để nhiều vốn dự trữ hơn khi ngân hàng mở rộng tín
dụng), và tuân thủ các hạn mức về tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản.
Cho đến tháng 3/2018,
đã có 27 nước thành viên của Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel (BCBS) đã thực thi
quy định về vốn an toàn tối thiểu theo mức độ rủi ro của tài sản, về tỷ lệ đòn
bẩy và thanh khoản, và tỷ lệ vốn dự trữ chống đỡ các cú sốc chu kỳ theo chuẩn mực
Basel III (2). Lưu ý thêm là trong số 27 nước này có cả những thành viên đang
phát triển của ASEAN như Indonesia và các nước đang phát triển trong khu vực
như Ấn Độ và Trung Quốc, bên cạnh các nước đã phát triển như Hong Kong,
Singapore, Nhật và Hàn Quốc.
Ngoài ra, còn có
đến hơn 100 nước phi thành viên của BCBS đã có chiến lược thực thi Basel III
trên 5 chỉ tiêu cơ bản của nó, gồm cơ chế vốn tối thiểu theo rủi ro, tỷ lệ đòn
bẩy, những khoản cho vay lớn, tỷ lệ thanh khoản, và tỷ lệ cấp vốn ổn định ròng
(NSRF) (3).
Tóm lại, trước thực
trạng khá thất vọng về việc thực thi Basel II ở Việt Nam, NHNN nên lấy đây làm
lý do và động lực để thực hiện một cuộc cải cách toàn diện và cơ bản trong hệ
thống ngân hàng nhằm phát triển và tiệm cận với chuẩn mực của khu vực và thế giới.
(1) http://ndh.vn/tham-dinh-them-7-ngan-hang-chuan-bi-ap-dung-basel-ii-20190110084253720p149c165.news
(2) https://www.bis.org/bcbs/publ/d440.pdf
(3) https://www.bis.org/fsi/publ/insights11.pdf
No comments:
Post a Comment