Những năm vừa qua
đã xảy ra nhiều vụ nhân viên ngân hàng lừa đảo dưới nhiều hình thức để chiếm đoạt
tiền tỷ của khách hàng và ngân hàng. Các vụ lừa đảo này xảy ra ở nhiều ngân
hàng, tư nhân có, có vốn nhà nước có, nên không thể không nghi ngờ rằng công
tác kiểm soát rủi ro với nhân viên ở nhiều ngân hàng rất có vấn đề, dễ bị lợi dụng
để lừa đảo gây tổn thất nặng về tài chính và uy tín cho ngân hàng. Do đó, các
ngân hàng cần cấp thiết xây dựng và củng cố lại công tác phòng chống lừa đảo
trong ngân hàng của mình.
Dưới đây là tóm tắt
một số loại hình lừa đảo, gian lận chính và những dấu hiệu cảnh báo sớm dựa
trên kinh nghiệm của các ngân hàng ở nước ngoài để các ngân hàng trong nước nhận
biết sớm và có cách ứng phó kịp thời, hữu hiệu.
Gian lận tài khoản
Những kẻ lừa đảo
trong ngân hàng biết rõ và lợi dụng tình trạng nhân viên khác trong ngân hàng
thường chỉ biết về những tài khoản mà họ phụ trách trong công việc hàng ngày,
chứ hiểu biết rất ít về những tài khoản khác ngoài phạm vi của họ. Một số kẻ lừa
đảo còn có quyền tiếp cận hoàn toàn với các tài khoản chi trả hoặc phong tỏa
các tài khoản dùng để tạm thời hạch toán các hạng mục như khoản vay đang xử lý,
chuyển tiền giữa các bộ phận trong ngân hàng, hoặc tiền đang trong quá trình
chuyển.
Những lợi thế này
giúp cho kẻ lừa đảo dễ dàng chuyển tiền từ tài khoản nọ sang tài khoản kia. Ví
dụ, một nhân viên có quyền tạo ra một tài khoản hạch toán các khoản phải trả
cho khách hàng là một công ty nào đó thì hoàn toàn có thể tạo ra tài khoản cho
một công ty giả mạo rồi chuyển tiền vào đó. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ ngân
hàng yếu, không theo dõi và nghi ngờ các khoản tiền lưu chuyển giữa các tài khoản,
hoặc nếu không có sự tách bạch chức năng, nhiệm vụ của nhân viên (ví dụ, để một
người vừa phụ trách tài khoản phải trả, vừa phụ trách tài khoản của khách hàng)
thì chắc chắn sớm hay muộn ngân hàng này sẽ bị nhân viên nào đó qua mặt để lừa
đảo ngân hàng và/hoặc khách hàng.
Ngoài hai nguyên
nhân trên, việc (để cho) nhân viên chia sẻ với nhau password để nhập vào hệ thống
kế toán, kiểm soát cũng là một chính sách xấu phổ biến và dễ dàng trở thành nguồn
gốc và cũng là dấu hiệu của hành vi gian lận. Bởi vậy, nhiều ngân hàng nước
ngoài thường xuyên tuyên truyền, nhắc nhở nhân viên không được chia sẻ password
của mình với bất cứ ai, kể cả sếp. Việc này được tiến hành dưới nhiều hình thức,
gồm cả những câu đố tình huống trong các buổi tập huấn tuân thủ bắt buộc như bạn
có nên lưu password của mình trong sổ tay hay không... Ngoài ra, định kỳ hàng
tháng, nhân viên toàn ngân hàng bị bắt buộc phải thay đổi password truy cập
email và các loại tài khoản liên quan.
Đánh cắp dữ liệu căn cước của khách hàng
Một kiểu gian lận,
lừa đảo trong nội bộ ngân hàng cũng trở nên phổ biến là việc đánh cắp dữ liệu
căn cước của khách hàng. Ví dụ, một số kẻ lừa đảo trong ngân hàng cấu kết với
nhau sử dụng các chi tiết có trong thẻ căn cước của khách hàng để mở tài khoản
ngân hàng và tài khoản thẻ tín dụng. Những kẻ này thuê người đóng vai khách
hàng rút tiền vì chúng biết rõ ngân hàng không có đủ năng lực công nghệ và an
ninh để ngăn ngừa thông tin khách hàng bị đánh cắp và cảnh báo cho ngân hàng biết
khi thông tin khách hàng bị rò rỉ.
Để phòng ngừa
gian lận loại này, ngân hàng cần tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ để theo dõi
và phát hiện sớm các hành vi của nhân viên có quyền truy cập thông tin khách
hàng như cập nhật vào tài khoản khách hàng sau giờ làm việc, thường xuyên hay
truy cập quá nhiều vào các tài khoản của khách VIP, và truy cập vào tài khoản
thường không thuộc phạm vi công việc của mình.
Chiếm đoạt tài khoản
Chiếm đoạt tài
khoản cũng là một trong những hành vi gian lận phổ biến trong nội bộ ngân hàng
và thường có sự thông đồng của những kẻ gian lận trong ngân hàng với người bên
ngoài. Ví dụ, một nhân viên ngân hàng có thể mở một tài khoản tiền gửi cho
khách hàng và sau đó thiết lập ngân hàng online (online banking) sử dụng tài
khoản này mà khách hàng không biết. Nhân viên này sau đó sẽ tự rút tiền của
khách hàng ra hoặc chuyển qua mạng cho một người bên ngoài. Hoặc nhân viên này
sẽ bán mã PIN và số tài khoản của khách hàng cho một người khác, sau đó thay đổi
địa chỉ đăng ký của chủ tài khoản và gửi yêu cầu cấp thẻ ngân hàng mới.
Với loại hành vi
gian lận này, ngân hàng cần có công cụ và nhân lực để theo dõi những thay đổi bất
thường hoặc thường xuyên của một tài khoản khách hàng nào đó. Những thay đổi
này có thể gồm: một nhân viên thay đổi tần
suất gửi sao kê tài khoản sang những kỳ hạn dài hơn; một nhân viên không thuộc
nhóm giao dịch với khách hàng lại thay đổi địa chỉ khách hàng; một nhân viên
thay đổi các chi tiết về khách hàng sau đó lại thay đổi về như cũ trong một khoảng
thời gian nhất định (chẳng hạn 1 tháng); một nhân viên tìm kiếm các tài khoản
“ngủ đông” của khách hàng; và một nhân viên truy cập tài khoản “ngủ đông” của
khách hàng và sau đó chuyển tiền từ tài khoản này.
Cấu kết với bên ngoài
Nếu những kẻ gian
lận trong ngân hàng không chỉ cấu kết với nhau ở nhiều chi nhánh, bộ phận, vai
trò, chức vụ, mà còn cấu kết với người bên ngoài để lừa đảo thì hậu quả thường
là rất lớn. Ví dụ, chúng có thể cấu kết với người ở phòng nhân sự để dễ bề tuyển
dụng người của mình vào những vị trí như nhân viên cho vay và nhân viên ngồi quầy
tiếp khách, hoặc thậm chí là nhân viên kiểm soát. Hoặc nếu biết rằng phòng thu
nợ có một quy trình rà soát nhân thân khách hàng yếu kém và có quyền tiếp cận với
nhiều thông tin khách hàng thì những kẻ gian lận sẽ tìm cách cấu kết hay bố trí
người vào phòng đó để lấy cắp thông tin khách hàng.
Một ví dụ khác về
loại hình gian lận này là một nhân viên cho vay lập hồ sơ xin duyệt cho vay mua
bất động sản của một khách hàng dưới tên giả và thông đồng với nhân viên thẩm định
tín dụng là người sau đó sẽ thẩm định giá trị bất động sản “trên trời”. Nhân
viên cho vay sau đó sẽ rút tiền và làm như là “khách hàng” đã rút và biến mất
cùng với số tiền này, còn mình thì giả như vô tội, không biết gì.
Những bộ phận “nhạy cảm”
Ngoài ra, bên cạnh việc theo dõi, phát hiện sớm các dấu hiệu cảnh
báo gian lận, ngân hàng cũng cần đặc biệt chú ý đến những bộ phận và nhân viên
có đặc quyền tiếp cận thông tin và tài khoản khách hàng bởi đây là những bộ phận
và nhân viên có rủi ro cao về gian lận. Ví dụ, trung tâm trực đường dây nóng của
ngân hàng thuộc loại này nên nếu thuê một bên thứ ba đảm nhận để cắt giảm chi
phí thì sẽ rất dễ bị kẻ gian khai thác trục lợi. Hoặc nhân viên IT của ngân
hàng cũng có thể đánh cắp dữ liệu căn cước của nhân viên khác nhằm mở tài khoản
tại các ngân hàng khác.
Ứng phó
Trước hết, hạn chế
sự truy cập dữ liệu khách hàng sẽ giúp ngân hàng hạn chế được không chỉ khả
năng đánh cắp thông tin khách hàng mà còn khả năng chiếm đoạt tài khoản bởi kẻ
gian. Sự theo dõi liên tục các hành vi của nhân viên và các hoạt động giao dịch
sẽ giúp bộc lộ những dấu hiệu cảnh báo sớm gian lận nội bộ.
Hệ thống theo
dõi, giám sát tốt nhất là hệ thống có khả năng phân tích, xác định các hành vi
dẫn đến thất thoát, nhắm đến gian lận từ nguồn và cho phép ngân hàng ngăn chặn
hành vi gian lận trước khi nó thực sự xảy ra. Theo cách này thì chiến lược theo
dõi, giám sát tốt nhất là chiến lược ngăn chặn: Nhân viên biết rõ mình đang bị
theo dõi, giám sát nên sẽ phải e ngại khi cố tình vi phạm nội quy ngân hàng.
Ngân hàng cũng cần
có các giải pháp công nghệ thích hợp để có thể, ví du, tự động ngăn chặn giao dịch
hoặc đưa ra cảnh báo để điều tra thêm. Hoặc khi một nhân viên tìm cách tiếp cận
những thông tin không thuộc phạm vi công việc của mình, giải pháp công nghệ
thích hợp sẽ nối kết hành vi này với những hoạt động cho vay hay nhận tiền gửi
của nhân viên này.
Ngoài việc trợ
giúp nhanh chóng xác định các hành vi nghi ngờ, giải pháp công nghệ còn ghi lại
những hành vi của người dùng nội bộ - tức nhân viên trong toàn bộ ngân hàng để
sau đó có thể đem ra xem xét lại để phục vụ điều tra.
Như vậy,
giải pháp công nghệ thích hợp sẽ giúp giám sát nội bộ tốt hơn, ngân hàng phản ứng
nhanh hơn với những rủi ro, gian lận, từ đó giảm thiệt hại về tài chính và uy
tín cho ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng qua việc ứng dụng các giải pháp công
nghệ cũng tạo ra một tín hiệu cho nhân viên của mình biết rằng họ đang bị theo
dõi, giám sát, nhờ thế mà làm giảm động cơ và nỗ lực gian lận của nhân viên.
No comments:
Post a Comment