Monday, 5 August 2019

Chủ động phòng ngừa rủi ro từ các Fintech (Bài đăng trên TBKTSG, 5/8/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/292187/chu-dong-phong-ngua-rui-ro-tu-cac-fintech-.html

Mới đây Hong Kong Monetary Authority – HKMA (có chức năng như ngân hàng trung ương của Hong Kong) đã lên tiếng cảnh báo rủi ro rửa tiền đã tăng lên từ 2 năm qua trong một số phân khúc hoạt động của các Fintech kinh doanh công cụ lưu giữ giá trị như Alipay hay WeChat, gồm rút tiền ở nước ngoài, chuyển tiền xuyên biên giới, và chuyển tiền ngang hàng (giữa các cá nhân, P2P).   
HKMA bắt đầu cấp phép hoạt động cho doanh nghiệp kinh doanh công cụ lưu trữ giá trị (SVF) từ năm 2016 và đến nay đã cấp phép tổng cộng cho 16 doanh nghiệp như vậy, trong đó có Octopus, WeChat Pay, Paypal và Alipay v.v... Các doanh nghiệp này buộc phải tuân thủ quy chế phòng chống rửa tiền (AML) do HKMA đặt ra.
Theo dõi quá trình hoạt động của SVF, HKMA nhận thấy phần lớn các nghiệp vụ cung ứng bởi SVF có mức độ rủi ro thấp. Tuy vậy, HKMA đánh giá cấp độ rủi ro liên quan đến AML và tài trợ khủng bố của SVF là ở cấp trung (NV: có 3 cấp - thấp, trung và cao). HKMA xác định rủi ro AML và tài trợ khủng bố chủ yếu tập trung ở những SVF dựa trên nền tảng kết nối được dùng cho nhiều hành động bất hợp pháp như nạp tiền ở nước ngoài có nguồn gốc bất minh vào các thẻ ghi có, và được rút ra bằng tiền mặt ở những nước có rủi ro cao, hoặc chức năng chuyển tiền ngang hàng P2P của SVF bị lợi dụng cho hoạt động cá cược bất hợp pháp.
Các doanh nghiệp kinh doanh SVF đã chủ động báo cáo khoảng 1.200 giao dịch đáng ngờ trong vòng 2 năm qua, từ tháng 11/2016 đến 12/2018, chủ yếu là các giao dịch trong đó tiền được dùng để mua các hàng hóa bất hợp pháp trên mạng, để đánh bạc và cá cược bất hợp pháp hoặc các hành vi liên quan đến rửa tiền như rút tiền mặt ở nước ngoài.
Dựa trên đánh giá và hiểu biết riêng của các doanh nghiệp kinh doanh SVF, HKMA ước tính có đến 1/3 giao dịch đáng ngờ là liên quan đến các hành vi phạm pháp nói trên. Một số giao dịch đáng ngờ khác thì được cho là có liên quan đến dịch vụ kiều hối lậu, buôn bán ma túy và buôn lậu.
Điều đáng nói ở đây là phương cách tiếp cận vấn đề của HKMA. Mặc dù mức độ rủi ro của nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố đã đạt cấp độ quan ngại, cần phải hành động, HKMA đã không chọn cách tiêu cực là thu hẹp hoạt động, cắt giảm bớt nghiệp vụ hoặc thậm chí là rút lại giấy phép hoạt động cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh SVF theo nguyên tắc khá phổ biến ở Việt Nam là “không quản được thì cấm”.
Thay vào đó, HKMA xác định việc cần làm là củng cố khuôn khổ quy chế để giảm thiểu khiếm khuyết đã được nhận diện cũng như mức độ rủi ro chung của SVF, đặc biệt liên quan đến các nghiệp vụ như rút tiền ở nước ngoài, chuyển tiền xuyên biên giới, và P2P, nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo duy trì chức năng hoạt động bình thường, lành mạnh của các SVF, tạo thuận lợi và dễ dàng cho khách hàng sử dụng SVF.
Theo hướng trên, một mặt doanh nghiệp kinh doanh SVF được coi là đối tác chứ không phải “thần dân bị trị” hay “tội đồ” của HKMA. Dẫu có thực tế là con số 1.200 giao dịch đáng ngờ mà các doanh nghiệp kinh doanh SVF báo cáo với HKMA chỉ chiếm có 0,7% trong tổng số giao dịch đáng ngờ mà HKMA nắm được nhưng HKMA dường như không coi đó là kết quả của việc báo cáo gian dối hoặc sự chểnh mảng với rủi ro từ các doanh nghiệp kinh doanh SVF. HKMA cũng đã công bằng khi đánh giá rằng hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh SVF đã thiết lập và thực thi hữu hiệu các hệ thống AML phù hợp với mức độ rủi ro rửa tiền mà họ đối mặt.
Do vậy, để nâng cao khả năng AML tại doanh nghiệp, HKMA đã tăng cường khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh SVF tích cực sử dụng công nghệ và các công cụ phân tích vào kiểm soát tội phạm tài chính và chủ động báo cáo định kỳ và bất thường diễn biến của các giao dịch bất thường, đặc biệt những giao dịch có quy mô đáng kể.
Mặt khác, HKMA cũng chủ động hợp tác với cơ quan chức năng ở các quốc gia khác trong việc giám sát các điển hình mới nhằm có thêm thông tin để hiểu rõ hơn các rủi ro rửa tiền đặc thù trong hoạt động của SVF. Tăng cường hợp tác với đối tác nước ngoài, đặc biệt ở Trung Quốc đại lục, được HKMA nhấn mạnh bởi đã có sự tăng mạnh trong sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của SVF giữa Hong Kong và Trung Quốc đại lục.     
Hàm ý cho Việt Nam là thay vì thái độ e dè, ngần ngại, thậm chí là có xu hướng không cấp phép và cấm đoán sử dụng các công cụ công nghệ tài chính mới như SVF, nên “mở lòng” đón tiếp, cho phép các doanh nghiệp kinh doanh các công cụ này hoạt động hợp pháp ở Việt Nam (theo một lộ trình được kiểm soát chặt chẽ).
Dù luôn có rủi ro và tiêu cực đi kèm các công cụ công nghệ tài chính mới này nhưng cần không chỉ nghĩ đến những lợi ích to lớn mà chúng đem lại cho người dân, mà còn cần nhận thức rằng những rủi ro này nếu chủ động và tích cực đối mặt và xử lý thì sẽ hoàn toàn có thể kiểm soát được với sự hợp lực của doanh nghiệp kinh doanh các công cụ này cũng như của các đối tác khu vực (Trung Quốc) và quốc tế.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).