Có một vấn đề xem
ra đã mang tính thời sự... trường kỳ, đến mức thành nhàm chán. Đó là việc cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau
cổ phần hóa. Trong một năm và cứ như vậy kéo dài qua hàng thập kỷ nay, không biết
bao nhiêu lần các cơ quan liên đới, các quan chức từ cấp vụ đến Phó Thủ tướng
và Thủ tướng đưa ra kế hoạch, tìm giải pháp, đôn đốc, thúc giục, và thậm chí đe
dọa sẽ “xử lý” cá nhân và tổ chức chậm chễ trong cổ phần hóa và thoái vốn. Nói
thì cứ nói, dọa thì cứ dọa nhưng mọi việc chẳng mấy tiến triển so với mong muốn,
với đủ loại lý do được đưa ra cũng đã trở thành quá quen thuộc, nhàm chán tương
tự như cách người ta giải thích lý do các dự án đầu tư chậm chễ, đội vốn.
Tuy nhiên, có một
điều cốt tử đằng sau việc lỡ kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước ít, hầu
như không được đề cập đến. Nói tóm tắt trong mấy từ thì đó là xung đột mục
tiêu.
Trên lý thuyết, cổ
phần hóa, thoái vốn nhà nước trước hết nhằm mục tiêu tối thượng là giảm thiểu nhanh
chóng sự dính lứu của nhà nước vào các hoạt động kinh tế (thông qua các DNNN).
Nhìn từ góc độ hiệu quả thì nhà nước là một nhà đầu tư, nhà quản lý tồi so với
nhà đầu tư, nhà quản lý tư nhân. Bản chất của sự yếu kém này nằm ở chế độ sở hữu
“cha chung không ai khóc”, do đó nguyên tắc “đồng tiền đi liền khúc ruột” bị vi
phạm. Tiền nhà nước mang đầu tư là tiền của dân, nhưng/nên hầu như không một
“người nhà nước” nào phải chịu trách nhiệm, phải bận tâm đến hiệu quả đầu tư.
Điều này dẫn đến nhiều hậu quả như nhà nước thất thoát vốn, thậm chí gánh thêm
nợ nần phát sinh bởi DNNN, trong khi kinh tế tư nhân thì bị chèn ép...
Nhưng ngay cả khi
thực hiện mục tiêu tối thượng trên thì bản chất sở hữu “cha chung không ai
khóc” vẫn phát huy tác dụng, ở chỗ là do tiền không phải là của mình nên những
người có trách nhiệm hoặc là thực hiện theo kiểu “ném tiền qua cửa sổ”, hoặc là
lợi dụng để trục lợi. Sự thể này lại dẫn đến mục tiêu cũng là tối thượng thứ
hai là cổ phần hóa và thoái vốn (nhanh chóng, đúng kế hoạch) nhưng không được
làm thất thoát vốn nhà nước. Thế là người nọ nhìn người kia để rồi rốt cục “bất
cập cơ chế” là thủ phạm chính được chỉ ra để giải thích cho mọi sự chậm chễ. Do
thủ phạm này có danh nhưng không có (hình hài) thực nên có lẽ nó sẽ còn tồn tại
dài dài ít nhất cho đến chừng nào mà “cơ chế” thay đổi về chất.
Chưa hết, trong bối
cảnh ngân sách nhà nước luôn chi nhiều thu ít thì cổ phần hóa, thoái vốn trở
thành một cái phao cứu sinh cho ngân sách. Nên lẽ đương nhiên là cổ phần hóa,
thoái vốn có thêm một mục tiêu tối thượng thứ ba là tối đa hóa lợi ích cho nhà
nước (tối đa hóa tiền thu về ngân sách). Vậy là, (với việc sử dụng nhiều thủ
thuật), trong nhiều trường hợp DNNN và cổ phần nhà nước trong doanh nghiệp được
định giá trên trời, với điều kiện để mua cổ phần khó nhằn, mang tính loại trừ
cao. Đương nhiên là cổ phần hóa và thoái vốn cũng vì thế mà “đi bộ” trường kỳ!
Để khắc phục được
sự xung đột mục tiêu trên thì phải phân loại DNNN và vốn nhà nước phù hợp với từng
mục tiêu cụ thể. Chẳng hạn, DNNN nào, vốn nhà nước ở doanh nghiệp nào đang thua
lỗ, bết bát, bên bờ phá sản mà không được phá sản thì cần phải được phép cổ phần
hóa và thoái vốn khẩn trương bằng mọi giá, kể cả giá 1 đồng. Với những DNNN, vốn
nhà nước còn lại, nguyên tắc giảm giá và nới lỏng điều kiện cần được áp dụng
qua mỗi lần đấu giá cho đến khi cổ phần hóa, thoái vốn thành công.
Tuy nhiên, câu hỏi
được đặt ra là ai sẽ (có trách nhiệm, dũng cảm) thực hiện việc phân loại trên?
Bởi người này có rủi ro lớn là sẽ phải hứng chịu hậu quả mỗi khi các trường hợp
cổ phần hóa, thoái vốn được xét lại. Kể cả khi làm một cách trung thực, công
tâm thì vẫn có rủi ro khi cấp dưới không như vậy trong việc đề xuất, “tham mưu”
mà cấp trên không nhận biết được. Trong “cơ chế” hiện nay thì xem ra câu trả lời
là bỏ ngỏ.
Liên quan đến vấn
đề trên là chuyện sử dụng tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Gần
đây có một số đề xuất thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp lớn và dùng vốn
này đầu tư vào một số dự án như giao thông, cảng biển... Với nhiều người, đây
là một bài toán khó, bởi áp lực vốn nhà nước lớn trong khi cổ phần hóa, thoái vốn
nhà nước lại rất chậm chạp, thậm chí bế tắc trong nhiều trường hợp.
Tuy nhiên, trong
khi không phủ nhận cái khó của nhà nước, các tiền đề trong bài toán trên cần được
đặt lại cho phù hợp hơn. Thứ nhất, vốn thu về từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước
phải được tập trung vào ngân sách. Về phía chi, vốn này không phải là để chi cụ
thể cho một dự án nào theo kiểu “đồng này mua mắm, đồng này mua muối”, mà phải
thực hiện theo các nguyên tắc chi ngân sách chung.
Thứ hai, cổ phần
hóa, thoái vốn nhà nước cần song hành với nguyên tắc nhà nước giảm thiểu các hoạt
động đầu tư, và/hoặc sở hữu doanh nghiệp, dự án, cổ phần mới. Do đó, việc nhà
nước trực tiếp đầu tư vào một dự án nào đó, kể cả có được dán nhãn “cấp thiết”,
nhất là sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn từ một doanh nghiệp cụ thể
nào đó, là điều nên tránh. Thay vào đó, nhà nước chỉ dùng các công cụ pháp lý để
khuyến khích, hoặc “đặt hàng” nhà đầu tư tư nhân cho các dự án mong muốn.
Khi sửa lại được
các tiền đề trên thì bài toán trên trở nên bớt khó hơn, bởi (i) trong số vô vàn
dự án thuộc dạng “cấp thiết”, nhà nước buộc sẽ phải lựa ra một số dự án “cấp
thiết hơn” phù hợp với khả năng chi ngân sách, đồng nghĩa là một số dự án “cấp
thiết” sẽ không còn là cấp thiết, phải tiến hành ngay nữa; (ii) nhà nước không
trực tiếp là nhà đầu tư, chủ đầu tư nên áp lực vốn lên ngân sách cũng vì thế mà
giảm đi. Và cũng vì thế, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước sẽ đỡ bị vướng vào
tình cảnh vừa phải làm nhanh, vừa phải thu được nhiều tiền mà lại không bị thất
thoát.
No comments:
Post a Comment