Friday, 9 August 2019

Chi khống, cho vay qua thẻ tín dụng đáng lo tới đâu? (Bài đăng trên TBKTSG, 10/8/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/292460/chi-khong-cho-vay-qua-the-tin-dung-dang-lo-toi-dau.html


Gần đây rộ lên chuyện ngân hàng phát hành thẻ tín dụng chào mời khách hàng vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng, rồi chuyện chủ thẻ tín dụng cho thuê thẻ tín dụng, thanh toán hộ (thanh toán/chi khống)...

Đối chiếu với các quy định của pháp luật hiện hành thì các chuyện nói trên đều “có gì đó sai sai”, bởi theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng trong cuộc họp báo Chính phủ mới đây thì Thông tư 19 banh hành vào tháng 6/2016 có quy định hành động thanh toán khống thẻ tín dụng là hành vi bị cấm và khi là hành vị bị cấm thì sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của Nghị định 96 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ, ngân hàng.

Nhưng tại sao hành vi thanh toán khống (và cho vay qua thẻ) lại bị cấm thì Thông tư 19 hay các văn bản pháp luật khác không giải thích rõ. Ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN, giải thích thêm: “Về nguyên tắc, thẻ tín dụng chỉ được sử dụng để thanh toán hoặc rút tiền tại máy ATM. Tuy nhiên, việc rút tiền mặt không được khuyến khích. Việc một số ngân hàng thương mại mời gọi người dân mở thẻ tín dụng, phê duyệt hạn mức cho vay rồi chuyển hạn mức đó vào tài khoản cá nhân thay thế cho việc phê duyệt một khoản vay thông thường, làm méo mó thị trường” (1).

Chiếu theo giải thích trên thì cái “sai” của việc cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng hay thanh toán khống thẻ tín dụng được phán định trên “nguyên tắc” là thẻ tín dụng chỉ được sử dụng để thanh toán hoặc rút tiền tại máy ATM.

Nhưng nguyên tắc trên liệu có đúng, có hợp lý?

Liên quan đến câu trả lời cho câu hỏi trên, xin nêu hai ví dụ cụ thể có tôi trong đó. Ví dụ thứ nhất là trong một chuyến đi đến Sydney, Úc, mấy năm về trước. Tại khách sạn, do hết tiền mặt nên tôi có hỏi cô lễ tân rằng có thể đổi tiền ở khách sạn không. Cô cho biết là khách sạn không có dịch vụ đổi tiền. Nhưng thấy tôi nhăn nhó khổ sở bởi không biết đổi tiền ở đâu ngoài phố, cô nói tôi đưa thẻ tín dụng cho cô để cô rút tiền hộ bằng một giao dịch sử dụng dịch vụ khống nào đó của khách sạn, theo đó cô đưa tôi số tiền cần thiết mà không tính thêm phí giao dịch (đương nhiên trừ những phí mà ngân hàng phát hành thẻ ở Singapore quy định). 

Ví dụ thứ hai, tôi thường nhận được điện thoại từ nhiều ngân hàng khác nhau ở Singapore mời chào vay tiền qua thẻ tín dụng, gọi là “balance transfer”, theo đó ngân hàng sẽ ghi nợ vào thẻ tín dụng của tôi và ghi có vào tài khoản cá nhân của tôi số tiền muốn vay trong hạn mức chi tiêu tối đa của thẻ tín dụng mà ngân hàng phát hành cấp cho tôi (tính dựa trên thu nhập). Lãi suất vay kiểu này cực kỳ cạnh tranh, chỉ khoảng 2%-2,2%/năm (đã gồm phí giao dịch) cho khoản vay ấn định kỳ hạn 6 tháng. Nếu quá thời hạn thanh toán 6 tháng mà tôi không trả được hết nợ thì số dư còn lại sẽ bị áp dụng lãi suất như với các khoản chi tiêu thông thường bằng thẻ tín dụng quá hạn thanh toán, khoảng 26%/năm. Tôi cũng đã có vài lần vay theo kiểu này một số tiền lớn để đầu tư (thậm chí vay gối đầu giữa các ngân hàng), và mọi chuyện đều suôn sẻ.

Từ hai ví dụ trên có thể thấy rằng “nguyên tắc” về cho vay qua thẻ tín dụng và chi khống thẻ tín dụng được hiểu và áp dụng như ở Việt Nam là không hoàn toàn giống như trên thế giới. Nói các khác, một số nguyên tắc về thẻ tín dụng đang được áp dụng hạn hẹp hơn ở Việt Nam so với thế giới. Cho nên, ở đây cần thống nhất một nguyên tắc là nếu cái “nguyên tắc” của Việt Nam khác biệt với thế giới thì Việt Nam cần thiết phải xem xét sửa cái “nguyên tắc” của mình, nếu thấy hợp lý. Không nên đơn thuần cấm đoán một hành vi nào đó chỉ vì hiểu chưa đầy đủ, hoặc thích cấm là cấm (vì những quan ngại và tác hại, nhưng không xác đáng, nêu dưới đây).  

Có lẽ điều gây quan ngại cho các cơ quan chức năng Việt Nam trưóc các hành vi cho vay qua thẻ tín dụng và chi khống thẻ tín dụng là những tác hại có thể có của những hành vi này mang đến cho xã hội. Điểm lại ý kiến của giới chuyên gia, quan chức và báo chí, các hành vi trên có thể gây ra những quan ngại, tác hại sau.

Thứ nhất, sở dĩ một số ngân hàng cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng là do các ngân hàng này có thị phần thẻ thấp, để cạnh tranh với các “ông lớn” khác họ phải triển khai loại hình cho vay này (2).

Nếu nhận định trên là đúng thì các “ông lớn” cũng hoàn toàn có thể/nên dùng hành vi tương tự để cạnh tranh với các ngân hàng nhỏ nhằm giữ thị phần. Nên việc nêu rằng các ngân hàng nhỏ đang cho vay qua thẻ chưa chứng minh được điều gì, nhất là liên quan đến tác hại của việc cho vay qua thẻ.

Thứ hai, ngân hàng cho vay qua thẻ là cạnh tranh trực tiếp (không lành mạnh? – người viết) với công ty cho vay tiêu dùng mà không cần chứng minh năng lực tài chính (trong khi người vay muốn vay từ công ty cho vay tiêu dùng thì phải chứng minh chuyện này) (2).

Nhận định trên là sai vì ngay từ đầu, khi mở thẻ tín dụng, ngân hàng đã yêu cầu và được chủ thẻ cung cấp đầy đủ giấy tờ, bằng chứng để ngân hàng nắm được nhân thân, thu nhập... của chủ thẻ. Ngân hàng nếu cho vay qua thẻ thì cũng sẽ  chỉ cho vay trong hạn mức dựa trên thu nhập của chủ thẻ.

Thứ ba, việc cho thuê thẻ, chi khống thẻ tín dụng gây ra hậu quả thực tế như chủ thẻ đã thanh toán xong hàng hóa, dịch vụ do người thuê thẻ mua nhưng người thuê thẻ không trả tiền cho chủ thẻ; người thuê thẻ tìm cách đánh cắp thông tin thẻ, lừa chủ thẻ đến địa chỉ bố trí sẵn để ghi lại thông tin thẻ... (3).

Những rủi ro trên là có thật nhưng chúng không chỉ là hậu quả duy nhất của việc cho thuê thẻ, chi khống thẻ tín dụng. Cùng một logic, do đã có nhiều trường hợp tiền trong thẻ (các loại) “không cánh mà bay”, vậy có nên cấm phát hành và sử dụng tất cả các loại thẻ và dịch vụ liên quan đến thẻ để đảm bảo an toàn cho người dùng?

Thứ tư, (theo đại diện Hội Thẻ Việt Nam), cho thuê thẻ về bản chất cũng giống như “vay ké” đã từng xảy ra. Ngân hàng không khuyến khích vì ngoài rủi ro cho chủ thẻ còn có thể xảy ra rủi ro cho ngân hàng khi chủ thẻ thông qua hình thức này rút tiền mặt quá hạn mức, sau đó chi xài hết mà không có khả năng thanh toán...(3).

Lý do trên là bất hợp lý, bởi, như đã nói ở trên, ngân hàng khi mở thẻ tín dụng bao giở cũng phải cấp cho chủ thẻ một hạn mức chi tiêu tối đa dựa trên chủ yếu là mức thu nhập. Nên dù chủ thẻ có tự chi tiêu hay cho thuê thẻ, rút tiền hộ người khác thì tổng số tiền rút ra được, về nguyên tắc, sẽ không thể vượt quá hạn mức ngân hàng đã cấp cho chủ thẻ, do đó giảm thiểu mất khả năng thanh toán. Tất nhiên, luôn có rủi ro là chủ thẻ chi tiêu, rút tiền ngay cả cho bản thân, ngay cả trong hạn mức nhưng vẫn không có khả năng thanh toán bởi vô vàn lý do. Nhưng việc mất khả năng thanh toán này không phải là hậu quả trực tiếp và duy nhất của việc cho thuê thẻ, chi khống thẻ.

Thứ năm, vệc một số ngân hàng mời gọi người dân mở thẻ tín dụng, phê duyệt hạn mức cho vay rồi chuyển hạn mức đó vào tài khoản cá nhân thay thế cho việc phê duyệt một khoản vay thông thường, làm ảnh hưởng tới thị trường, không phù hợp với chủ trương thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ (2).

Không rõ việc ngân hàng chuyển hạn mức cho vay thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân sẽ “làm ảnh hưởng tới thị trường” như thế nào, bởi cũng như nêu trong ví dụ cá nhân ở trên, đây là việc làm bình thường ở nước ngoài. Chưa hết, việc cho vay qua thẻ như vậy không nhất thiết đi ngược lại chủ trương thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ, bởi tiền chỉ được chuyển từ (loại hình) tài khoản này sang (loại hình) tài khoản khác, chứ không phải giải ngân trực tiếp cho người vay (chủ thẻ) bằng tiền mặt. Sau đó, người vay vẫn có thể chi tiêu bằng cách chuyển khoản hay rút tiền mặt, như các trường hợp thông thường khác, chẳng hạn trả lương qua tài khoản.

Tóm lại, để thuyết phục thị trường, có lẽ NHNN cần phải có những luận cứ sắc bén hơn để vạch ra những tác hại cụ thể của việc cho vay qua thẻ, từ đó chứng tỏ việc cấm như trong Thông tư 19 là xác đáng. Nếu không, có lẽ NHNN cũng cần xem xét thực tế trên thế giới để có thêm các quy định áp  dụng cho vay qua thẻ, chi khống thẻ tín dụng...

 

(1) http://cafef.vn/lach-luat-rut-tien-the-tin-dung-20190722065925406.chn

(2) http://cafef.vn/chan-lach-luat-cho-vay-qua-the-tin-dung-20190728102254406.chn

(3) http://cafef.vn/om-no-vi-cho-thue-the-tin-dung-20190802072946875.chn

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).