Gần đây rộ lên
chuyện ngân hàng phát hành thẻ tín dụng chào mời khách hàng vay tiêu dùng qua
thẻ tín dụng, rồi chuyện chủ thẻ tín dụng cho thuê thẻ tín dụng, thanh toán hộ
(thanh toán/chi khống)...
Đối chiếu với các
quy định của pháp luật hiện hành thì các chuyện nói trên đều “có gì đó sai
sai”, bởi theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng trong cuộc
họp báo Chính phủ mới đây thì Thông tư 19 banh hành vào tháng 6/2016 có quy định
hành động thanh toán khống thẻ tín dụng là hành vi bị cấm và khi là hành vị bị
cấm thì sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của Nghị định 96 về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ, ngân hàng.
Nhưng tại sao
hành vi thanh toán khống (và cho vay qua thẻ) lại bị cấm thì Thông tư 19 hay
các văn bản pháp luật khác không giải thích rõ. Ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng
Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN, giải thích thêm: “Về nguyên tắc, thẻ tín dụng
chỉ được sử dụng để thanh toán hoặc rút tiền tại máy ATM. Tuy nhiên, việc rút
tiền mặt không được khuyến khích. Việc một số ngân hàng thương mại mời gọi người
dân mở thẻ tín dụng, phê duyệt hạn mức cho vay rồi chuyển hạn mức đó vào tài
khoản cá nhân thay thế cho việc phê duyệt một khoản vay thông thường, làm méo
mó thị trường” (1).
Chiếu theo giải
thích trên thì cái “sai” của việc cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng hay thanh
toán khống thẻ tín dụng được phán định trên “nguyên tắc” là thẻ tín dụng chỉ được
sử dụng để thanh toán hoặc rút tiền tại máy ATM.
Nhưng nguyên tắc
trên liệu có đúng, có hợp lý?
Liên quan đến câu
trả lời cho câu hỏi trên, xin nêu hai ví dụ cụ thể có tôi trong đó. Ví dụ thứ
nhất là trong một chuyến đi đến Sydney, Úc, mấy năm về trước. Tại khách sạn, do
hết tiền mặt nên tôi có hỏi cô lễ tân rằng có thể đổi tiền ở khách sạn không.
Cô cho biết là khách sạn không có dịch vụ đổi tiền. Nhưng thấy tôi nhăn nhó khổ
sở bởi không biết đổi tiền ở đâu ngoài phố, cô nói tôi đưa thẻ tín dụng cho cô
để cô rút tiền hộ bằng một giao dịch sử dụng dịch vụ khống nào đó của khách sạn,
theo đó cô đưa tôi số tiền cần thiết mà không tính thêm phí giao dịch (đương
nhiên trừ những phí mà ngân hàng phát hành thẻ ở Singapore quy định).
Ví dụ thứ hai,
tôi thường nhận được điện thoại từ nhiều ngân hàng khác nhau ở Singapore mời
chào vay tiền qua thẻ tín dụng, gọi là “balance transfer”, theo đó ngân hàng sẽ
ghi nợ vào thẻ tín dụng của tôi và ghi có vào tài khoản cá nhân của tôi số tiền
muốn vay trong hạn mức chi tiêu tối đa của thẻ tín dụng mà ngân hàng phát hành
cấp cho tôi (tính dựa trên thu nhập). Lãi suất vay kiểu này cực kỳ cạnh tranh,
chỉ khoảng 2%-2,2%/năm (đã gồm phí giao dịch) cho khoản vay ấn định kỳ hạn 6
tháng. Nếu quá thời hạn thanh toán 6 tháng mà tôi không trả được hết nợ thì số
dư còn lại sẽ bị áp dụng lãi suất như với các khoản chi tiêu thông thường bằng
thẻ tín dụng quá hạn thanh toán, khoảng 26%/năm. Tôi cũng đã có vài lần vay
theo kiểu này một số tiền lớn để đầu tư (thậm chí vay gối đầu giữa các ngân
hàng), và mọi chuyện đều suôn sẻ.
Từ hai ví dụ trên
có thể thấy rằng “nguyên tắc” về cho vay qua thẻ tín dụng và chi khống thẻ tín
dụng được hiểu và áp dụng như ở Việt Nam là không hoàn toàn giống như trên thế
giới. Nói các khác, một số nguyên tắc về thẻ tín dụng đang được áp dụng hạn hẹp
hơn ở Việt Nam so với thế giới. Cho nên, ở đây cần thống nhất một nguyên tắc là
nếu cái “nguyên tắc” của Việt Nam khác biệt với thế giới thì Việt Nam cần thiết
phải xem xét sửa cái “nguyên tắc” của mình, nếu thấy hợp lý. Không nên đơn thuần
cấm đoán một hành vi nào đó chỉ vì hiểu chưa đầy đủ, hoặc thích cấm là cấm (vì
những quan ngại và tác hại, nhưng không xác đáng, nêu dưới đây).
Có lẽ điều gây
quan ngại cho các cơ quan chức năng Việt Nam trưóc các hành vi cho vay qua thẻ
tín dụng và chi khống thẻ tín dụng là những tác hại có thể có của những hành vi
này mang đến cho xã hội. Điểm lại ý kiến của giới chuyên gia, quan chức và báo
chí, các hành vi trên có thể gây ra những quan ngại, tác hại sau.
Thứ nhất, sở dĩ một
số ngân hàng cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng là do các ngân hàng này có thị
phần thẻ thấp, để cạnh tranh với các “ông lớn” khác họ phải triển khai loại
hình cho vay này (2).
Nếu nhận định
trên là đúng thì các “ông lớn” cũng hoàn toàn có thể/nên dùng hành vi tương tự
để cạnh tranh với các ngân hàng nhỏ nhằm giữ thị phần. Nên việc nêu rằng các
ngân hàng nhỏ đang cho vay qua thẻ chưa chứng minh được điều gì, nhất là liên
quan đến tác hại của việc cho vay qua thẻ.
Thứ hai, ngân
hàng cho vay qua thẻ là cạnh tranh trực tiếp (không lành mạnh? – người viết) với
công ty cho vay tiêu dùng mà không cần chứng minh năng lực tài chính (trong khi
người vay muốn vay từ công ty cho vay tiêu dùng thì phải chứng minh chuyện này)
(2).
Nhận định trên là
sai vì ngay từ đầu, khi mở thẻ tín dụng, ngân hàng đã yêu cầu và được chủ thẻ
cung cấp đầy đủ giấy tờ, bằng chứng để ngân hàng nắm được nhân thân, thu nhập...
của chủ thẻ. Ngân hàng nếu cho vay qua thẻ thì cũng sẽ chỉ cho vay trong hạn mức dựa trên thu nhập của
chủ thẻ.
Thứ ba, việc cho
thuê thẻ, chi khống thẻ tín dụng gây ra hậu quả thực tế như chủ thẻ đã thanh
toán xong hàng hóa, dịch vụ do người thuê thẻ mua nhưng người thuê thẻ không trả
tiền cho chủ thẻ; người thuê thẻ tìm cách đánh cắp thông tin thẻ, lừa chủ thẻ đến
địa chỉ bố trí sẵn để ghi lại thông tin thẻ... (3).
Những rủi ro trên
là có thật nhưng chúng không chỉ là hậu quả duy nhất của việc cho thuê thẻ, chi
khống thẻ tín dụng. Cùng một logic, do đã có nhiều trường hợp tiền trong thẻ
(các loại) “không cánh mà bay”, vậy có nên cấm phát hành và sử dụng tất cả các
loại thẻ và dịch vụ liên quan đến thẻ để đảm bảo an toàn cho người dùng?
Thứ tư, (theo đại
diện Hội Thẻ Việt Nam), cho thuê thẻ về bản chất cũng giống như “vay ké” đã từng
xảy ra. Ngân hàng không khuyến khích vì ngoài rủi ro cho chủ thẻ còn có thể xảy
ra rủi ro cho ngân hàng khi chủ thẻ thông qua hình thức này rút tiền mặt quá hạn
mức, sau đó chi xài hết mà không có khả năng thanh toán...(3).
Lý do trên là bất
hợp lý, bởi, như đã nói ở trên, ngân hàng khi mở thẻ tín dụng bao giở cũng phải
cấp cho chủ thẻ một hạn mức chi tiêu tối đa dựa trên chủ yếu là mức thu nhập.
Nên dù chủ thẻ có tự chi tiêu hay cho thuê thẻ, rút tiền hộ người khác thì tổng
số tiền rút ra được, về nguyên tắc, sẽ không thể vượt quá hạn mức ngân hàng đã
cấp cho chủ thẻ, do đó giảm thiểu mất khả năng thanh toán. Tất nhiên, luôn có rủi
ro là chủ thẻ chi tiêu, rút tiền ngay cả cho bản thân, ngay cả trong hạn mức
nhưng vẫn không có khả năng thanh toán bởi vô vàn lý do. Nhưng việc mất khả
năng thanh toán này không phải là hậu quả trực tiếp và duy nhất của việc cho
thuê thẻ, chi khống thẻ.
Thứ năm, vệc một
số ngân hàng mời gọi người dân mở thẻ tín dụng, phê duyệt hạn mức cho vay rồi
chuyển hạn mức đó vào tài khoản cá nhân thay thế cho việc phê duyệt một khoản
vay thông thường, làm ảnh hưởng tới thị trường, không phù hợp với chủ trương
thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ (2).
Không rõ việc
ngân hàng chuyển hạn mức cho vay thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân sẽ “làm ảnh
hưởng tới thị trường” như thế nào, bởi cũng như nêu trong ví dụ cá nhân ở trên,
đây là việc làm bình thường ở nước ngoài. Chưa hết, việc cho vay qua thẻ như vậy
không nhất thiết đi ngược lại chủ trương thanh toán không dùng tiền mặt của
Chính phủ, bởi tiền chỉ được chuyển từ (loại hình) tài khoản này sang (loại
hình) tài khoản khác, chứ không phải giải ngân trực tiếp cho người vay (chủ thẻ)
bằng tiền mặt. Sau đó, người vay vẫn có thể chi tiêu bằng cách chuyển khoản hay
rút tiền mặt, như các trường hợp thông thường khác, chẳng hạn trả lương qua tài
khoản.
Tóm lại, để thuyết
phục thị trường, có lẽ NHNN cần phải có những luận cứ sắc bén hơn để vạch ra những
tác hại cụ thể của việc cho vay qua thẻ, từ đó chứng tỏ việc cấm như trong
Thông tư 19 là xác đáng. Nếu không, có lẽ NHNN cũng cần xem xét thực tế trên thế
giới để có thêm các quy định áp dụng cho
vay qua thẻ, chi khống thẻ tín dụng...
(1) http://cafef.vn/lach-luat-rut-tien-the-tin-dung-20190722065925406.chn
(2) http://cafef.vn/chan-lach-luat-cho-vay-qua-the-tin-dung-20190728102254406.chn
(3) http://cafef.vn/om-no-vi-cho-thue-the-tin-dung-20190802072946875.chn
No comments:
Post a Comment