Sunday, 15 August 2021

Chi ngân sách trong đại dịch: Tránh miễn, giảm thuế, phí đại trà (Bài đăng trên KTSG, 15/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/319328/chi-ngan-sach-trong-dai-dich-tranh-mien-giam-thue-phi-dai-tra.html

Bộ Tài chính đang dự thảo nghị quyết về một số giải pháp thu ngân sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19. Theo đó, sẽ giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2021. Hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh sẽ được giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong quý 3 và 4 năm 2021. Doanh nghiệp và tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ sẽ được giảm 30% thuế giá trị gia tăng.

Ngoài ra, cũng sẽ miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và 2021 đối với doanh nghiệp và tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, 2019 và 2020. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề xuất giảm tiền thuê đất cho năm 2021.  

Tính gộp tất cả các giải pháp đã thực hiện từ đầu năm 2021 và các giải pháp đề xuất trên thì số tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân năm 2021 là khoảng 138 ngàn tỉ đồng, trong đó gói gia hạn, miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đã ban hành khoảng 118 ngàn tỉ đồng (20 ngàn tỷ đồng còn lại là từ các giải pháp đang đề xuất) (1).

Số tiền 138 ngàn tỷ đồng đã và sẽ miễn giảm này tương đương với 9,3% tổng thu ngân sách năm 2020 (1.481,6 ngàn tỷ đồng) nên không thể không thừa nhận rằng đây là một con số lớn, đồng nghĩa với thâm hụt ngân sách sẽ tăng lên mạnh ít nhất trong năm nay.

Tất nhiên, trong bối cảnh đại dịch và nhu cầu chi bức thiết để vừa phòng chống đại dịch, vừa duy trì và phục hồi các hoạt động kinh tế thì sự tăng chi, tăng thâm hụt ngân sách là điều không thể tránh khỏi đối với không chỉ Việt Nam mà còn hầu hết mọi nước trên thế giới. Tuy vậy, cách chi thế nào cho hiệu quả và hợp lý là điều cần bàn.

Về nguyên tắc, miễn giảm thuế là một cách chi trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ và cá nhân. Tuy nhiên, cách làm này có nhược điểm lớn là đánh đồng mọi doanh nghiệp, hộ và cá nhân như nhau, bất kể họ có lãi hay không, nhiều hay ít. Điều này tạo ra một sự bất bình đẳng, cũng tương tự như việc đánh thuế thu nhập cá nhân theo một mức duy nhất, bất kể người có thu nhập chỉ 10 triệu đồng và người có thu nhập hàng tỉ, chục tỉ đồng/tháng.

Một phần vì lý do này mà trên thế giới chỉ có một ít nước là đã ban hành các giải pháp miễn giảm thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế kinh doanh, và thu nhập cá nhân (2).

Như vậy, nếu muốn hỗ trợ bằng các giải pháp thuế thì Chính phủ chỉ nên dừng lại ở các giải pháp chung được nhiều nước sử dụng như hoãn, kéo dài thời gian nộp thuế và miễn, giảm tiền phạt chậm nộp thuế. Mục đích của việc này chỉ là để tăng thêm thanh khoản cho nền kinh tế; các đối tượng được hưởng có thêm tiền trong tay để giải quyết các vấn đề cấp thiết khác trong sản xuất kinh doanh. 

Riêng giải pháp giảm thuế giá trị gia tăng trong một số lĩnh vực dịch vụ thì đây là điều hợp lý mà một số nước trên thế giới đã thực hiện, và phù hợp với nguyên tắc nêu ở trong bài này là không miễn giảm thuế một cách đại trà, cho bất cứ đối tượng nào.

Nói như trên không có nghĩa là đề xuất Chính phủ không tăng chi cho phòng chống đại dịch và phục hồi kinh tế. Thay cho việc miễn giảm thuế đại trà, trên diện rộng, Chính phủ cần tăng chi cho những đối tượng cần hỗ trợ, ví dụ như các đối tượng dễ bị tổn thương, các doanh nghiệp khó khăn đang phải đối mặt với áp lực sa thải nhân viên, các nhu cầu duy trì và củng cố hạ tầng cơ sở thiết yếu cho kinh tế xã hội, cũng như nhu cầu cấp vốn lãi suất thấp cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh để phục hồi kinh tế, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động.

Trên khía cạnh này thì ngoài khoản 118 ngàn tỷ đồng đã thực hiện, không thể đảo ngược lại được nữa, khoản 20 ngàn tỷ đồng đề xuất từ miễn giảm thuế nói trên cần được chuyển hóa thành, hoặc bổ sung thêm vào các gói hỗ trợ như gói 26 ngàn tỷ đồng cho người khó khăn vì dịch hoặc cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp (0%) để trả lương giữ chân người lao động...

Cũng cần nói thêm một chút về các biện pháp hỗ trợ đại trà như giảm giá điện, nước, cước viễn thông... Những biện pháp này về bản chất là cắt giảm chi phí hoạt động, sinh hoạt cho doanh nghiệp và người dân nhưng chúng lại đang vi phạm nguyên tắc hỗ trợ đúng đối tượng cần hỗ trợ, bởi doanh nghiệp và người dân có điều kiện, có thu nhập tốt cũng được hưởng lợi từ việc giảm giá và phí này.

Vì vậy, như ở nhiều nước khác, việc giảm tiền điện, nước... chỉ được áp dụng cho những hộ, người dân khó khăn, thu nhập thấp (căn cứ vào mức thu nhập khai báo tính thuế của họ). Còn người giàu có hơn thì vẫn phải trả giá cước như thường.

Trên hết, để đỡ làm phức tạp hóa vấn đề và dễ thực thi, hãy gộp các biện pháp hỗ trợ lẻ tẻ, dễ gây thất thoát không đúng đối tượng này thành một giải pháp hỗ trợ thống nhất như gói hỗ trợ cho người/doanh nghiệp khó khăn, bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, căn cứ vào mức doanh thu, thu nhập của họ trong và sau đại dịch.

------       

(1) https://tuoitre.vn/se-giam-30-thue-thu-nhap-doanh-nghiep-nam-2021-20210802161904938.htm

(2) https://blogs.worldbank.org/developmenttalk/tax-relief-time-crisis-what-countries-are-doing-sustain-business-and-household

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).