Monday 23 August 2021

Chuẩn bị cho hậu Covid (Bài đăng trên KTSG, 20/8/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/chuan-bi-cho-hau-covid/

Dù đang hoành hành nhưng đại dịch Covid-19 rồi cũng sẽ qua đi như mọi cuộc đại dịch khác, và xã hội vẫn phải tiếp tục vận động tiến lên phía trước. Do đó, ngay từ bây giờ cần phải chuẩn bị cho quá trình  phục hồi hậu Covid.

Có thể hình dung nền kinh tế và xã hội sau đại dịch cũng sẽ như một quốc gia mới trải qua một cuộc chiến tàn khốc, với ngổn ngang thiệt hại vật chất và con người, với nhiều ngành nghề/doanh nghiệp từ thoi thóp đến đóng cửa. Ngược lại, cũng sẽ có một số ngành nghề, doanh nghiệp khấm khá, ăn nên làm ra. Nếu ví von thì cũng đã có người, có nơi dùng hình ảnh chữ K để mô tả tình trạng nền kinh tế trong và sau đại dịch.

Với một nền kinh tế trong tình trạng như vậy, điều cần làm, cần ưu tiên là dọn dẹp đổ nát, “ma chay” cho doanh nghiệp, ngành nghề đã chết, cấp cứu, “tiếp nước” cho ngành nghề, doanh nghiệp thoi thóp sống. “Ma chay” là để giảm nhẹ tác động quá lớn lên người lao động của doanh nghiệp nay đã trở nên thất nghiệp, vô gia cư. Doanh nghiệp, ngành nghề chết đi đã vậy nên doanh nghiệp, ngành nghề đang thoi thóp sống thì càng cần phải khẩn trương hỗ trợ để chúng gượng lại được, không (tiếp tục) sa thải, cắt lương người lao động, đẩy xã hội vào một vòng xoáy luẩn quẩn lao xuống hố.

Do đó, việc cần chuẩn bị ngay từ bây giờ là phải thu xếp, dự trữ nguồn lực. Nhưng nguồn lực nào đây khi mà các nguồn nội tại, như ngân sách và các quỹ dự trữ, đã và đang được sử dụng với quy mô ngày càng cao với thời điểm cạn kiệt đã không còn xa? Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước thì như nước nhỏ giọt và cũng không thể nhỏ ra mãi được.

Đi vay trong và ngoài nước do đó là tất yếu. Quốc hội gần đây đã thông qua kế hoạch vay hơn 3 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2025. Nhưng nguồn tài trợ này có một số điểm cần bàn, mà cụ thể đầu tiên là tỷ lệ nợ công trên GDP. Tỷ lệ này sẽ tăng mạnh trở lại trong năm nay, dự tính lên tới 58,6% (với GDP chưa “điều chỉnh” về quy mô), so với mức 55,3% năm 2020, như được nêu ra trong Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước (1). Lưu ý thêm rằng con số dự tính này được xây dựng vào đầu năm nay, khi dịch bệnh chưa bùng phát mạnh trên quy mô cả nước như hiện nay. Do đó, diễn biến dịch bệnh xấu đi nhanh chóng từ nửa năm sau của năm nay có khả năng đẩy mức nợ công trên GDP lên cao hơn nữa bởi tác động kép gồm GDP tăng chậm hơn và nợ công tăng nhanh hơn để tài trợ cho các nhu cầu chống dịch tăng vọt.

Cần lưu ý một điểm rất quan trọng nữa là về nhận thức phổ biến hiện nay rằng tình hình nợ công của Việt Nam đã cải thiện mạnh nếu tính theo tỷ lệ trên GDP. Điều này được thể hiện qua việc hạ trần nợ công từ mức 65% GDP trong Kế hoạch tài chính quốc gia giai đoạn 2016-2020 xuống còn 60% GDP theo Kế hoạch tài chính 2021-2025, cũng như các con số ước tính mới, đẹp hơn về nợ công/GDP hàng năm. Tuy nhiên, cần biết rằng GDP năm 2021 sau khi “điều chỉnh” về quy mô sẽ cao hơn tới 25% so với GDP chưa điều chỉnh (tính toán này dựa vào các con số nêu trong (1)). Như vậy, trần nợ công thực tế lại được nới tăng lên so với trước khi “điều chỉnh” GDP (bởi 60% của 1,25 x GDP là lớn hơn 65% của GDP).

Do đó, dù tỷ lệ nợ công/GDP trong năm 2021 trở đi nếu có giảm hoặc đứng ở dưới ngưỡng cho phép thì sự giảm đó chỉ đơn thuần mang tính mặt kỹ thuật, chứ thực chất thì nợ công vẫn đã và sẽ tăng mạnh, đặc biệt là so với tăng thu ngân sách – là nguồn chi trả nợ công chính, và là con số không thể “điều chỉnh” tăng mạnh lên như với GDP. Nói cách khác, dư địa tăng vay nợ không làm giảm đi rủi ro lên kinh tế vĩ mô từ tăng nợ công đi đôi với gia tăng bội chi ngân sách.

Để tránh áp lực gia tăng nợ công lên kinh tế, xã hội, cần, một mặt, tránh lạm dụng vay mượn với lý do tài trợ chống dịch và phục phục hồi kinh tế. Mặt khác, cần tăng cường nguồn thu nội tại có tính bền vững hơn, cụ thể là thuế.

Tăng thu thuế nghe thì rất có vẻ nghịch lý trong giai đoạn này khi Bộ Tài chính đang đề xuất cắt giảm hàng loạt sắc thuế. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đây, người viết cho rằng việc cắt giảm thuế trên diện rộng là điều bất hợp lý, ít nhất bởi có nhiều doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân vẫn phát đạt trong và sau đại dịch (nhánh khác trong chữ K nói trên). Do đó, với những đối tượng này, nếu không muốn tăng mức thuế chúng phải nộp, như cách Mỹ đang muốn thực hiện (tăng thuế thu nhập doanh nghiệp) để lấy vốn tài trợ cho các gói kích thích, phục hồi kinh tế ở nước này, thì cũng đừng nên cắt giảm thuế cho chúng.

Dẫu vậy, về trung hạn, sau khi đại dịch qua đi, do việc tăng vay nợ không thể là một giải pháp bền vững nên giải pháp tăng thuế, ít nhất là thuế thu nhập (doanh nghiệp và cá nhân) và có thể là thuế giá trị gia tăng như một số nước đã/sẽ làm (chẳng hạn Singapore) cần được xem xét và chuẩn bị.

Trước mắt, cần tăng cường nguồn thu thuế từ các đối tượng dạng tình nghi chưa nộp thuế (đầy đủ) như các đối tượng kinh doanh, quảng cáo online, các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp công nghệ xuyên biên giới... Nhưng để thu được thuế của các đối tượng này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, kể cả ở cấp độ đàm phán quốc gia, bởi nó liên quan đến các thỏa thuận đánh thuế toàn cầu đối với các công ty đa quốc gia nói chung và doanh nghiệp công nghệ lớn của Mỹ nói riêng.  

Lo nguồn lực cũng là để đảm bảo cho các sự chuẩn bị khác có tính khả thi hơn. Để phục hồi và phát triển hậu đại dịch thì trước đó cần chuẩn bị cho người lao động và doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng với một hoành cảnh và môi trường kinh tế, xã hội mới mà có thể sẽ rất khác với thời tiền dịch. Hoàn cảnh và môi trường mới này đòi hỏi, ví dụ, doanh nghiệp và các ngành nghề phải tích cực chuyển đổi số, người lao động thì phải có kiến thức, kỹ năng mới để đáp ứng được nền sản xuất, kinh doanh mới dựa vào số hóa, làm việc từ xa nhiều hơn.

Sự chuẩn bị về phía Chính phủ trên khía cạnh này là thiết kế, hỗ trợ thực thi các giải pháp giúp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển đổi số theo các hình thức như doanh nghiệp và Chính phủ cùng làm (doanh nghiệp bỏ ra một phần kinh phí, Chính phủ hỗ trợ một phần).

Người lao động được Chính phủ hỗ trợ chi phí sinh hoạt và đào tạo khi tham gia các khóa đào tạo nâng cao kỹ năng, đổi mới chuyên môn do Chính phủ thiết kế và/hoặc đài thọ (một phần).

Về bản thân bộ máy chính trị và chính quyền các cấp cũng cần có sự chuẩn bị theo hướng tinh gọn tối đa và nâng cấp khẩn trương chất lượng hoạt động của mình. Đại dịch đã bộc lộ một thực tế rõ ràng rằng bộ máy quản lý hiện tại vừa thừa vừa yếu, vốn dựa nhiều vào các quyết tâm chính trị, đã không đủ năng lực cần có để quản lý hữu hiệu kinh tế, xã hội. Nếu không có thay đổi về chất, đây sẽ là lực cản cho quá trình hồi phục và phát triển hậu đại dịch và các giai đoạn tiếp theo.

Tóm lại, đại dịch là một hích để bộc lộ hết những cái xấu và mặt khuất của kinh tế, xã hội, đồng thời cũng là động năng cho các thay đổi mang tính cách mạng. Nhận thức được các xu hướng thay đổi tất yếu để có những chuẩn bị kịp thời sẽ giúp nhanh chóng khắc phục được các hậu quả của dịch bệnh và đưa đất nước sang một trang phát triển mới.

(1) https://vov.vn/kinh-te/rui-ro-no-cong-hien-huu-sau-dai-dich-844407.vov

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).