https://thesaigontimes.vn/chuan-bi-cho-hau-covid/
Dù đang hoành
hành nhưng đại dịch Covid-19 rồi cũng sẽ qua đi như mọi cuộc đại dịch khác, và
xã hội vẫn phải tiếp tục vận động tiến lên phía trước. Do đó, ngay từ bây giờ cần
phải chuẩn bị cho quá trình phục hồi hậu
Covid.
Có thể hình dung
nền kinh tế và xã hội sau đại dịch cũng sẽ như một quốc gia mới trải qua một cuộc
chiến tàn khốc, với ngổn ngang thiệt hại vật chất và con người, với nhiều ngành
nghề/doanh nghiệp từ thoi thóp đến đóng cửa. Ngược lại, cũng sẽ có một số ngành
nghề, doanh nghiệp khấm khá, ăn nên làm ra. Nếu ví von thì cũng đã có người, có
nơi dùng hình ảnh chữ K để mô tả tình trạng nền kinh tế trong và sau đại dịch.
Với một nền kinh
tế trong tình trạng như vậy, điều cần làm, cần ưu tiên là dọn dẹp đổ nát, “ma
chay” cho doanh nghiệp, ngành nghề đã chết, cấp cứu, “tiếp nước” cho ngành nghề,
doanh nghiệp thoi thóp sống. “Ma chay” là để giảm nhẹ tác động quá lớn lên người
lao động của doanh nghiệp nay đã trở nên thất nghiệp, vô gia cư. Doanh nghiệp,
ngành nghề chết đi đã vậy nên doanh nghiệp, ngành nghề đang thoi thóp sống thì
càng cần phải khẩn trương hỗ trợ để chúng gượng lại được, không (tiếp tục) sa
thải, cắt lương người lao động, đẩy xã hội vào một vòng xoáy luẩn quẩn lao xuống
hố.
Do đó, việc cần
chuẩn bị ngay từ bây giờ là phải thu xếp, dự trữ nguồn lực. Nhưng nguồn lực nào
đây khi mà các nguồn nội tại, như ngân sách và các quỹ dự trữ, đã và đang được
sử dụng với quy mô ngày càng cao với thời điểm cạn kiệt đã không còn xa? Cổ phần
hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước thì như nước nhỏ giọt và
cũng không thể nhỏ ra mãi được.
Đi vay trong và
ngoài nước do đó là tất yếu. Quốc hội gần đây đã thông qua kế hoạch vay hơn 3
triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2025. Nhưng nguồn tài trợ này có một số điểm
cần bàn, mà cụ thể đầu tiên là tỷ lệ nợ công trên GDP. Tỷ lệ này sẽ tăng mạnh
trở lại trong năm nay, dự tính lên tới 58,6% (với GDP chưa “điều chỉnh” về quy
mô), so với mức 55,3% năm 2020, như được nêu ra trong Nghị quyết về dự toán
ngân sách nhà nước (1). Lưu ý thêm rằng con số dự tính này được xây dựng vào đầu
năm nay, khi dịch bệnh chưa bùng phát mạnh trên quy mô cả nước như hiện nay. Do
đó, diễn biến dịch bệnh xấu đi nhanh chóng từ nửa năm sau của năm nay có khả
năng đẩy mức nợ công trên GDP lên cao hơn nữa bởi tác động kép gồm GDP tăng chậm
hơn và nợ công tăng nhanh hơn để tài trợ cho các nhu cầu chống dịch tăng vọt.
Cần lưu ý một điểm
rất quan trọng nữa là về nhận thức phổ biến hiện nay rằng tình hình nợ công của
Việt Nam đã cải thiện mạnh nếu tính theo tỷ lệ trên GDP. Điều này được thể hiện
qua việc hạ trần nợ công từ mức 65% GDP trong Kế hoạch tài chính quốc gia giai
đoạn 2016-2020 xuống còn 60% GDP theo Kế hoạch tài chính 2021-2025, cũng như
các con số ước tính mới, đẹp hơn về nợ công/GDP hàng năm. Tuy nhiên, cần biết rằng
GDP năm 2021 sau khi “điều chỉnh” về quy mô sẽ cao hơn tới 25% so với GDP chưa
điều chỉnh (tính toán này dựa vào các con số nêu trong (1)). Như vậy, trần nợ công thực tế lại được nới tăng
lên so với trước khi “điều chỉnh” GDP (bởi 60% của 1,25 x GDP là lớn hơn 65% của
GDP).
Do đó, dù tỷ lệ nợ
công/GDP trong năm 2021 trở đi nếu có giảm hoặc đứng ở dưới ngưỡng cho phép thì
sự giảm đó chỉ đơn thuần mang tính mặt kỹ thuật, chứ thực chất thì nợ công vẫn
đã và sẽ tăng mạnh, đặc biệt là so với tăng thu ngân sách – là nguồn chi trả nợ
công chính, và là con số không thể “điều chỉnh” tăng mạnh lên như với GDP. Nói
cách khác, dư địa tăng vay nợ không làm giảm đi rủi ro lên kinh tế vĩ mô từ
tăng nợ công đi đôi với gia tăng bội chi ngân sách.
Để tránh áp lực
gia tăng nợ công lên kinh tế, xã hội, cần, một mặt, tránh lạm dụng vay mượn với
lý do tài trợ chống dịch và phục phục hồi kinh tế. Mặt khác, cần tăng cường nguồn
thu nội tại có tính bền vững hơn, cụ thể là thuế.
Tăng thu thuế
nghe thì rất có vẻ nghịch lý trong giai đoạn này khi Bộ Tài chính đang đề xuất
cắt giảm hàng loạt sắc thuế. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đây, người viết cho
rằng việc cắt giảm thuế trên diện rộng là điều bất hợp lý, ít nhất bởi có nhiều
doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân vẫn phát đạt trong và sau đại dịch (nhánh
khác trong chữ K nói trên). Do đó, với những đối tượng này, nếu không muốn tăng
mức thuế chúng phải nộp, như cách Mỹ đang muốn thực hiện (tăng thuế thu nhập
doanh nghiệp) để lấy vốn tài trợ cho các gói kích thích, phục hồi kinh tế ở nước
này, thì cũng đừng nên cắt giảm thuế cho chúng.
Dẫu vậy, về trung
hạn, sau khi đại dịch qua đi, do việc tăng vay nợ không thể là một giải pháp bền
vững nên giải pháp tăng thuế, ít nhất là thuế thu nhập (doanh nghiệp và cá
nhân) và có thể là thuế giá trị gia tăng như một số nước đã/sẽ làm (chẳng hạn
Singapore) cần được xem xét và chuẩn bị.
Trước mắt, cần
tăng cường nguồn thu thuế từ các đối tượng dạng tình nghi chưa nộp thuế (đầy đủ)
như các đối tượng kinh doanh, quảng cáo online, các công ty đa quốc gia, các
doanh nghiệp công nghệ xuyên biên giới... Nhưng để thu được thuế của các đối tượng
này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, kể cả ở cấp độ đàm phán quốc gia, bởi nó liên
quan đến các thỏa thuận đánh thuế toàn cầu đối với các công ty đa quốc gia nói
chung và doanh nghiệp công nghệ lớn của Mỹ nói riêng.
Lo nguồn lực cũng
là để đảm bảo cho các sự chuẩn bị khác có tính khả thi hơn. Để phục hồi và phát
triển hậu đại dịch thì trước đó cần chuẩn bị cho người lao động và doanh nghiệp
nhanh chóng thích ứng với một hoành cảnh và môi trường kinh tế, xã hội mới mà
có thể sẽ rất khác với thời tiền dịch. Hoàn cảnh và môi trường mới này đòi hỏi,
ví dụ, doanh nghiệp và các ngành nghề phải tích cực chuyển đổi số, người lao động
thì phải có kiến thức, kỹ năng mới để đáp ứng được nền sản xuất, kinh doanh mới
dựa vào số hóa, làm việc từ xa nhiều hơn.
Sự chuẩn bị về
phía Chính phủ trên khía cạnh này là thiết kế, hỗ trợ thực thi các giải pháp
giúp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển đổi số theo các
hình thức như doanh nghiệp và Chính phủ cùng làm (doanh nghiệp bỏ ra một phần
kinh phí, Chính phủ hỗ trợ một phần).
Người lao động được
Chính phủ hỗ trợ chi phí sinh hoạt và đào tạo khi tham gia các khóa đào tạo
nâng cao kỹ năng, đổi mới chuyên môn do Chính phủ thiết kế và/hoặc đài thọ (một
phần).
Về bản thân bộ
máy chính trị và chính quyền các cấp cũng cần có sự chuẩn bị theo hướng tinh gọn
tối đa và nâng cấp khẩn trương chất lượng hoạt động của mình. Đại dịch đã bộc lộ
một thực tế rõ ràng rằng bộ máy quản lý hiện tại vừa thừa vừa yếu, vốn dựa nhiều
vào các quyết tâm chính trị, đã không đủ năng lực cần có để quản lý hữu hiệu
kinh tế, xã hội. Nếu không có thay đổi về chất, đây sẽ là lực cản cho quá trình
hồi phục và phát triển hậu đại dịch và các giai đoạn tiếp theo.
Tóm lại, đại dịch
là một cú hích để bộc lộ hết
những cái xấu và mặt khuất của kinh tế, xã hội, đồng thời cũng là động năng cho
các thay đổi mang tính cách mạng. Nhận thức được các xu hướng thay đổi tất yếu
để có những chuẩn bị kịp thời sẽ giúp nhanh chóng khắc phục được các hậu quả của
dịch bệnh và đưa đất nước sang một trang phát triển mới.
(1) https://vov.vn/kinh-te/rui-ro-no-cong-hien-huu-sau-dai-dich-844407.vov
No comments:
Post a Comment