Monday, 16 August 2021

Tác động của đợt phân bổ 456 tỉ SDR của IMF lên Việt Nam (Bài đăng trên KTSG, 15/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/319304/tac-dong-cua-dot-phan-bo-456-ti-sdr-cua-imf-len-viet-nam.html

Ngày 2/8, Thống đốc IMF đã phê chuẩn sự phân bổ chung Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) trị giá 456 tỷ SDR, tương đương 650 tỷ USD, nhằm bổ sung thanh khoản cho nền kinh tế thế giới (1). Sự phân bổ chung này sẽ có hiệu lực ngày 23/8. Đồng SDR mới tạo ra sẽ được ghi có cho tất cả các nước thành viên IMF tỷ lệ với quota hiện có của họ trong IMF.

Trước khi bàn đến tác động của đợt phân bổ chung này lên Việt Nam, cần biết mấy điều. Thứ nhất là về khái niệm SDR. Đây là một tài sản dự trữ quốc tế có lãi suất được IMF tạo ra năm 1969 để bổ sung dự trữ ngoại hối chính thức của các nước thành viên. SDR được dùng như một đơn vị hạch toán của IMF và một số tổ chức quốc tế khác, và không phải là một loại tiền tệ hay quyền đòi nợ với IMF, nhưng nó có thể đổi lấy những đồng tiền tự do sử dụng của các nước thành viên IMF trên thị trường tự nguyện mua bán, hoặc IMF có thể chỉ định các nước thành viên mua SDR của các nước thành viên khác.          

Thứ hai là về sự phân bổ chung SDR. Thỏa thuận của các thành viên IMF quy định khi thỏa mãn một số điều kiện thì IMF có thể phân bổ SDR cho các nước thành viên. Tuy nhiên, sự phân bổ chung SDR (cho tất cả các nước thành viên) phải nhất quán với mục tiêu đáp ứng nhu cầu toàn cầu trong dài hạn là bổ sung tài sản dự trữ ngoại hối hiện tại và được sự ủng hộ rộng rãi của các nước thành viên IMF (một sự phân bổ chung cần được Ban Thống đốc phê chuẩn với 85% tổng số phiếu bầu của các nước thành viên). Sau khi sự phân bổ chung được thông qua, các nước thành viên sẽ nhận được phần phân bổ tỷ lệ với quota của họ trong IMF.

Để dễ hình dung, hãy coi sự phân bổ chung SDR của IMF như một hành động nới lỏng định lượng bởi các ngân hàng trung ương, qua đó các nước thành viên IMF có thêm nguồn cung ngoại tệ mạnh nếu họ muốn tiếp cận và sử dụng, giúp họ giảm phụ thuộc vào việc phát hành nợ trong và/hoặc ngoài nước (và có lãi suất cao hơn) để tăng dự trữ ngoại hối. Một nước thành viên IMF được phân bổ bao nhiêu SDR thì tùy thuộc vào quota của nước đó trong IMF. Quota này được tính theo công thức luôn bị tranh cãi gồm các biến số như GDP, độ mở thương mại và “sự biến động”! Ở khu vực ASEAN, Indonesia có tỷ lệ quota cao nhất, 0,96% và Việt Nam có tỷ lệ thấp nhất, 0,24%.

Thứ ba, cho đến nay IMF đã phân bổ 204,2 tỷ SDR, gồm 182,6 tỷ phân bổ năm 2009 khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra. Giá trị của SDR được thiết lập dựa vào một rổ 5 đồng tiền là USD, euro,  nhân dân tệ Trung Quốc, yen Nhật, và bảng Anh. Tuy nhiên, đợt phân bổ lần này thực ra đã được đề xuất từ năm 2020 nhưng sau đó bị Mỹ dưới thời cựu Tổng thống Trump phủ quyết (Mỹ nắm 16,5% tỷ lệ phiếu bầu với quyền phủ quyết). Đến tháng 3 năm nay, chính quyền Tổng thống Biden đã ủng hộ đề xuất đợt phân bổ chung này.              

Thứ tư, Mỹ lúc đầu lo ngại một  cách sai lầm rằng sự phân bổ SDR cuối cùng sẽ phải tài trợ bởi tiền thuế của người dân Mỹ. Trên thực tế, các đợt phân bổ SDR không gây ra bất cứ tổn thất nào cho Mỹ. Sau đó, họ lại lo rằng sự phân bổ này làm tăng bất bình đẳng toàn cầu bởi các nước đang phát triển chỉ nhận được 42,2% tổng số SDR phát hành mới. Tuy nhiên, đối với các nước phát triển thì số tiền nhận được từ IMF như vậy cũng là rất quý vì nó bổ sung dự trữ ngoại hối, giảm áp lực lên nội tệ vào thời điểm họ phải căng mình tăng chi tiêu mà vẫn phải giữ các cân đối vĩ mô không quá xấu đến mức làm nền kinh tế  sụp đổ.

Thứ năm, trong đợt phân bổ năm 2009, nhiều nước giàu đã không sử dụng đến phần được phân bổ, mà để lại tại IMF. Do vậy, lần phân bổ này có thể sẽ có một xu hướng tương tự. Theo đó, các nước giàu thường đã bơm đủ tiền hay tiếp cận được với nguồn ngoại tệ mạnh như USD, nên có thể sẽ không cần phải dùng đến nguồn hỗ trợ thanh khoản này của IMF mà tiếp tục để lại tại đó. Xu hướng này không tạo ra tác dụng phụ có hại và cũng không tạo ra áp lực lạm phát toàn cầu. IMF cũng đang nghiên cứu các hình thức hỗ trợ từ các nước giàu cho vay phần SDR được phân bổ không sử dụng đến cho các nước nghèo như thông qua Quỹ ủy thác Tăng trưởng và giảm nghèo có lãi suất cho vay ưu đãi hiện tại bằng 0.    

Trở lại với tác động của đợt phân bổ chung 456 tỷ SDR lần này lên Việt Nam. Từ tỷ lệ quota 0,24%, Việt Nam sẽ nhận được 1,09 tỷ SDR, tương đương 1,56 tỷ USD. Con số này không phải là nhỏ, nhưng cũng không phải là lớn, vì nó chỉ chiếm khoảng quanh quẩn 1,5% dự trữ ngoại hối của Việt Nam có quy mô ước tính trên 100 tỷ USD hiện nay, hoặc tương đương khoảng một nửa tháng nhập khẩu của Việt Nam. Nói cách khác, nếu Việt Nam sử dụng nguồn cung ngoại tệ này để bổ sung dự trữ ngoại hối thì nó cũng chỉ tăng được thêm khoảng 1,5%.

Tuy nhiên, bản chất của sự phân bổ này, như đã nói, là một khoản tiền bơm ra từ ngân hàng trung ương (là IMF trong trường hợp này) mang tính cấp phát nên số tiền 1,56 tỷ USD mà Việt Nam nhận được trong số 650 tỷ USD mà toàn cầu nhận được từ IMF là một sự bổ sung thanh khoản có thể mang ra sử dụng ngay lập tức khi cần, nhưng không mang tính vay mượn. Như vậy, có thể coi đây là một nguồn quỹ dự phòng, thêm một lớp đệm an toàn cho một tương lai bất định.

Nhưng cần lưu ý là nếu Việt Nam sử dụng đến số SDR được phân bổ này, chẳng hạn để đổi lấy ngoại tệ (do đó, làm tăng tỷ trọng ngoại tệ và giảm tỷ trọng SDR nắm giữ trong quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam), thì sẽ phải trả lãi theo lãi suất 0,05% (có hiệu lực đến ngày 8/8) tính trên khoản chênh lệch giữa số SDR Việt Nam nắm giữ còn lại và phần SDR Việt Nam được phân bổ. Nếu không sử dụng đến nó thì khoản SDR được phân bổ này không tạo ra phí tổn nào cho Việt Nam ngoài khoản phí rất nhỏ phải trả hàng năm để duy trì hoạt động của Cục SDR của IMF, tính theo số phân bổ đã nhận được.

Nhờ số tiền nhận được này, về mặt kỹ thuật, Việt Nam có thể tăng thâm hụt thương mại thêm 1,56 tỷ USD hoặc tăng chi tiêu làm tăng thâm hụt ngân sách thêm khoảng 35 nghìn tỷ đồng nữa (với chi phí nhỏ dưới dạng lãi suất thấp hơn nhiều so với các khoản vay thương mại hoặc ưu đãi khác) mà không sợ làm tăng thêm áp lực lên tỷ giá tiền đồng. Việt Nam cũng có thể sử dụng số tiền này để trả nợ gốc/lãi hay đảm bảo nghĩa vụ của mình với các nước thành viên khác hoặc với IMF.

----

(1) https://www.imf.org/en/News/Articles/2021/07/30/pr21235-imf-governors-approve-a-historic-us-650-billion-sdr-allocation-of-special-drawing-rights

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).