https://thesaigontimes.vn/?p=319082&preview=true&preview_id=319082
Đại dịch kèm phong tỏa, giãn cách đã buộc hàng chục ngàn người lao động nhập
cư từ các địa phương khác đến các trung tâm công nghiệp ở miền Bắc và Nam phải trở
về quê quán cách xa đó dăm trăm, thậm chí đến cả ngàn kilomet trong hoảng loạn
bởi không thể nương náu lại khi doanh nghiệp đóng cửa, không còn tiền ăn và tiền
trọ.
Khi đại dịch dịu đi, các doanh nghiệp sẽ mở cửa trở lại (nếu còn sống sót!)
nên sẽ tuyển dụng trở lại. Lúc đó có thể
kỳ vọng một làn sóng ngược người lao động từ khắp nơi lại đổ về các trung tâm
công nghiệp cả nước. Tuy nhiên, kỳ vọng này chỉ thành sự thật nếu người lao động
biết chắc rằng lần quay trở lại này sẽ là lâu dài, và sẽ không (sớm) có một cuộc
tháo chạy tổng lực tìm đường sống lần thứ hai, ba như vừa rồi.
Vì không có gì đảm bảo rằng dịch bệnh sẽ không quay trở lại và phong tỏa sẽ
không tái diễn nên thời gian đầu, có thể kéo dài hàng tháng, các doanh nghiệp ở
các trung tâm công nghiệp sẽ nhiều khả năng phải chứng kiến nạn thiếu hụt lao động
thậm chí đến mức trầm trọng.
Để cân bằng cung cầu lao động trong hoàn cảnh (tạm thời) thiếu hụt như vậy
thì các doanh nghiệp buộc phải tăng mức đãi ngộ để hấp dẫn người lao động tại
chỗ, vùng lân cận, và đặc biệt là từ các địa phương khác quay trở lại làm việc,
bất chấp các rủi ro an sinh vẫn rình rập. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải tổn
phí thêm tiền đào tạo, tái đào tạo lại nhân công, bởi hoàn toàn có thể một lượng
nhân công đã bỏ về qua, rời khỏi doanh nghiệp là “một đi không trở lại”.
Hậu quả của gánh nặng trên đối với doanh nghiệp là hiển nhiên và sẽ ảnh hưởng
đến chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp. Nhưng họ cũng chẳng
biết làm gì hơn, một khi mô hình sản xuất, kinh doanh của họ vẫn phải dựa vào
nguồn lao động nhập cư dồi dào (và lương thấp) so với tuyển dụng tại chỗ.
Cần lưu ý thêm rằng không chỉ đại dịch mà các biến cố khác cũng có thể đẩy
các doanh nghiệp phụ thuộc vào lao động nhập cư rơi vào tình cảnh tương tự. Lạm
phát cao làm cho đồng lương của người lao động nhập cư teo tóp trong khi nhu cầu
chi tiêu cho cuộc sống và gia đình, con cái không thể cắt giảm hơn được nữa.
Rơi vào cảnh này thì nhiều người lao động nhập cư sẽ lại chọn con đường quay về
quê để tồn tại chứ không thể sống mòn mãi tại nơi đô thị.
Tình cảnh/rủi ro trên đặt ra một số vấn đề ngắn và trung hạn. Về phía doanh
nghiệp, trong ngắn hạn, một mặt cần hỗ trợ người lao động tối đa để họ quay trở
lại làm việc, tạm thời yên tâm với một tương lai còn nhiều bất định. Tiền lương
có thể không tăng (mạnh), nhưng doanh nghiệp cần cam kết đảm bảo cung ứng một số
điều kiện tồn tại cơ bản cho người lao động trong mọi hoàn cảnh, nhất là khi có
biến cố xảy ra, như hỗ trợ một phần tiền thuê nhà và trợ cấp (tạm thời) nghỉ việc
khi doanh nghiệp phải tạm thời đóng cửa vì một lý do nào đó.
Tất nhiên là sẽ có nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được, hoặc vì nguồn lực
mỏng, khi đóng cửa dù là tạm thời thì cũng không có nguồn thu nhập/dự trữ nào
khác; hoặc vì mô hình kinh doanh của họ là dựa trên lao động giá càng rẻ càng tốt.
Với loại doanh nghiệp nguồn lực mỏng, Chính phủ có thể đóng vai trò “bà đỡ”
trong những lúc khó khăn thông qua việc (cam kết) cho doanh nghiệp vay với lãi
suất thấp, hoặc tài trợ, để trả lương, hỗ trợ cho người lao động. Điều này thì
Chính phủ cũng đang làm, cho dù kết quả thì như... chưa làm!
Với loại doanh nghiệp sống nhờ vào “bóc lột” nhân công, có thể họ cũng tận
dụng sự trợ giúp tương tự của Chính phủ. Nhưng do bản chất của mô hình kinh
doanh của họ nên sẽ đến một thời điểm nào đó mà chi phí nhân công, kể cả sau
khi đã trừ đi hỗ trợ của Chính phủ, nếu có, trở nên đắt đỏ, không còn hấp dẫn để
duy trì mô hình kinh doanh của họ. Lúc đó, hãy coi đại dịch và hậu đại dịch là
một cuộc sàng lọc tự nhiên để gạt bỏ những yếu tố không còn hợp thời, không
đáng được lưu giữ bằng mọi cách.
Chính phủ cũng có thể trợ giúp doanh nghiệp hậu đại dịch thông qua việc phối
hợp với doanh nghiệp và chính quyền các địa phương tổ chức các đợt đưa người
lao động tại các địa phương trở lại các trung tâm kinh tế, công nghiệp trong trật
tự, an toàn, với chi phí hợp lý.
Trong trung hạn, Chính phủ cần kéo dãn các trung tâm công nghiệp, kinh tế
ra cả nước. Mục đích không chỉ để xóa bỏ chênh lệch phát triển và thu nhập giữa
các địa phương và người dân, mà còn giảm các tác hại kinh tế, văn hóa, gia đình
và xã hội đi đôi với vấn đề lao động nhập cư. Một lợi ích hiển nhiên khác là
doanh nghiệp sẽ ít chịu rủi ro biến động nhân lực hơn.
Để thực hiện kéo dãn các trung tâm kinh tế và công nghiệp, đi đôi với phát
triển cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt và đường thủy, Chính phủ cần tăng cường
năng lực giáo dục và đào tạo cho các địa phương để đáp ứng nhu cầu nhân lực đủ
mọi cấp độ của các doanh nghiệp đang và sẽ chuyển đến hoạt động tại địa phương.
Bên cạnh đó, điều quan trọng mà Chính phủ cần làm là phối hợp, giám sát các
địa phương để đảm bảo cuộc đua phát triển giữa các địa phương là một cuộc đua
lành mạnh, bằng những giải pháp và công cụ lành mạnh – như đơn giản hóa thủ tục
hành chính, tăng minh bạch và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương –
chứ không phải là cuộc đua xuống hố thông qua giảm/miễn thuế, tăng ưu đãi.
Với những trung tâm kinh tế, công nghiệp lớn của đất nước như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương..., do sự hấp dẫn riêng có của chúng nên luôn có một bộ phận lớn lao động nhập cư tìm cách gắn bó lâu dài. Một trong những việc Chính phủ có thể làm để giúp cho bộ phận lao động này cũng như doanh nghiệp tuyển dụng họ là cung cấp nơi ở/ký túc xá với giá thuê rẻ, ổn định. Nguồn cung các chỗ ăn ở kiểu này hợp lý nhất là nguồn mà các địa phương này đang, đã và sẽ có kế hoạch dành cho phát triển nhà ở xã hội. Hình thức nhà này hiện tại theo hình thức mua đứt bán đoạn, không giúp gì mấy cho số đông lao động nhập cư bởi chúng chỉ dành cho một số ít là người được mua, ít hơn nhiều số người có nhu cầu thuê trong thời gian làm việc tại địa phương, trong khi vẫn có nhiều sai sót về đối tượng được mua, vẫn phải tiêu phí nguồn lực công như hỗ trợ lãi suất, ưu đãi thuế, phí đất đai...
No comments:
Post a Comment