Monday, 13 September 2021

Thay đổi phương thức mua ngoại tệ không nhất thiết làm thay đổi lãi suất (Bài đăng trên KTSG, 13/9/2021)

https://thesaigontimes.vn/thay-doi-phuong-thuc-mua-ngoai-te-khong-nhat-thiet-lam-thay-doi-lai-suat/

Lâu nay báo chí và giới phân tích vẫn có thói quen nhìn vào động thái chính sách liên quan đến mua, bán ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để đoán định xu hướng của lãi suất tiền đồng.

Cụ thể, việc NHNN gần đây thay đổi phương thức mua giao kỳ hạn 6 tháng về phương thức mua giao ngay, theo giới phân tích, sẽ tạo nguồn cung (tiền) mới và tức thời. Do đó, thanh khoản được kỳ vọng sẽ tiếp tục dồi dào, làm giảm nhẹ mặt bằng lãi suất trong (các) tháng tiếp theo (1).

Kiểu nhận định, phân tích trên là rất phiến diện, và, do đó, kết luận đưa ra là không chính xác, mang tính võ đoán. Đó là do những lý do sau.

Thứ nhất, cung tiền, và do đó, lãi suất có thay đổi hay không thì không chỉ phụ thuộc vào mỗi hành động mua/bán ngoại tệ của NHNN (hay mua/bán kiểu gì, theo phương thức nào). Vì một lý do nào đó, nếu NHNN nhận thấy cung tiền của mình đã đủ lớn ở mức cần thiết, họ hoàn toàn có thể, một mặt, mua vào ngoại tệ (để, ví dụ, đáp ứng nhu cầu tăng dự trữ ngoại hối), một mặt lại tung trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN ra để hút tiền đồng về. Đây là hành động gọi là sterilisation (trung hòa tiền tệ).

Cho nên, muốn biết hành động mua vào ngoại tệ của NHNN có phải là hành động nới lỏng tiền tệ (để hạ lãi suất tiền đồng) hay không thì ít nhất cũng phải phân tích xem trong cùng thời điểm diễn ra việc mua ngoại tệ với số lượng đáng kể này thì NHNN có tiến hành bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN qua thị trường mở để thu bớt tiền đang lưu thông trong nền kinh tế về kho quỹ của NHNN hay không.

Nhiều phân tích tuy cũng nhắc đến hoạt động của NHNN trên thị trường mở nhưng lại chỉ chú trọng đến việc NHNN có chào thầu cho vay (cho vay các ngân hàng thương mại qua cầm cố giấy tờ có giá của họ) trên thị trường này hay không. Đây cũng là một dạng phân tích ngược, phiến diện, bởi lẽ ra phải tập trung vào phía ngược lại, tức NHNN có chào thầu cho ngân hàng thương mại mua lại trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN hay không.

Tất nhiên, có không ít giai đoạn mà không thấy NHNN có bất kể hành động gì trên thị trường mở, dù là cho vay ra hay thu tiền về. Ngoài khả năng NHNN không công bố đầy đủ thông tin – là điều khó có thể phủ nhận hay là điều hiếm hoi, tự bản thân việc NHNN không có hành động gì trên thị trường mở như vậy vẫn là chưa đủ để nói rằng NHNN đã nới lỏng tiền tệ (thông qua việc một mặt thì mua vào ngoại tệ, mặt khác thì không bán ra trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN). Bởi, để kết luận như vậy thì ít nhất vẫn phải xem NHNN đã thực sự có mua vào ngoại tệ hay không, mua bao nhiêu, có đáng kể hay không. Nói cách khác, (thay đổi về) phương thức mua ngoại tệ của NHNN, và kể cả việc mua ngoại tệ, không nhất thiết là chỉ dấu cho thay đổi về cung tiền của NHNN, từ đó có kết luận về xu hướng lãi suất trong tương lai.

Thứ hai, giả sử thực sự NHNN có mua ngoại tệ và theo phương thức giao ngay, đồng thời không tiến hành trung hòa tiền tệ. Lúc đó, quả thật cung tiền đồng sẽ tăng lên tức thời. Nhưng điều này cũng vẫn là không đủ để nói lên xu hướng của lãi suất trong thời gian sau đó.

Giả sử đồng thời, hoặc một thời gian ngắn sau đó NHNN lại có những hành động theo xu hướng thắt chặt tiền tệ, gồm tung trái phiếu, tín phiếu ra qua để hút tiền về qua thị trường mở như nói ở trên, hoặc NHNN cắt giảm cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn, thậm chí nâng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc hay giảm lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc. (Lưu ý thêm là hầu như NHNN không công bố thông tin về các khoản cho vay tái chiết khấu, vay tái cấp vốn để biết là NHNN có nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ qua kênh này hay không). Những hành động mang tính thắt chặt này sẽ trung hòa, giảm tác dụng của hành động nới lỏng tiền tệ qua việc mua vào ngoại tệ, kể cả theo phương thức giao ngay, của NHNN.

Thứ ba, và từ việc kết hợp các yếu tố phân tích như trên, cách duy nhất để “thấy” được xu hướng lãi suất và thanh khoản trong tương lai gắn liền với việc thay đổi phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN là phải đồng thời xem xét việc mua bán ngoại tệ của NHNN có thực sự đã diễn ra hay không và ở quy mô bao nhiêu (bao nhiêu tiền đồng đã được tung ra thị trường ở một thời điểm cụ thể), và số liệu về cung tiền tại thời điểm có hành động mua bán ngoại tệ và sau đó.

Tuy nhiên, vì NHNN nếu có công bố số liệu về cung tiền thì cũng chỉ làm vậy ít nhất là sau hai tháng kể từ tháng hiện tại. Như vậy, hành động mua bán ngoại tệ của NHNN (chứ chưa nói đến phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN) có làm thay đổi lãi suất và thanh khoản hay không chỉ có thể kết luận được sau ít nhất hai tháng. Nhưng vì trong hai tháng sau đó hoàn toàn có khả năng NHNN sẽ tiến hành những hành động chính sách khác liên quan đến cung tiền như nói ở trên. Nên rốt cục... không thể kết luận gì về mối liên quan giữa phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN, kể cả bản thân việc mua bán ngoại tệ của NHNN, với xu hướng của lãi suất và thanh khoản trong tương lai sau đó!

----

(1) https://cafef.vn/nguon-tien-moi-co-the-xuat-hien-dua-lai-suat-tiep-tuc-giam-thoi-gian-toi-20210904013749352.chn

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).