Sunday 26 September 2021

Hạn mức tăng trưởng tín dụng: Những lý do... trật lất!

https://thesaigontimes.vn/han-muc-tang-truong-tin-dung-nhung-ly-do-chua-xac-dang/

Mới đây, có đại biểu Quốc hội đã đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem xét trong thời gian tới thay việc quản lý bằng biện pháp hành chính là cấp "room" tín dụng (tức hạn mức tăng trưởng tín dụng – người viết), bằng việc quản lý hệ số an toàn vốn, vừa đảm bảo an toàn, vừa phù hợp với chuẩn Basel II và thông lệ quốc tế (1).

Lý do cho đề nghị này, theo vị đại biểu, là cần có những biện pháp, những chính sách, cơ chế tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước, nhất là để doanh nghiệp tư nhân được thuận lợi vay vốn, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng. Vốn tín dụng từ ngân hàng là nguồn tiếp cận chính của doanh nghiệp. Nếu dòng vốn không kịp thời, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, kiệt quệ dẫn đến phải đóng cửa, phá sản. Kinh tế có thể dẫn đến suy thoái, sau một đợt khủng hoảng tài chính sẽ cần rất nhiều năm để phục hồi.

Theo người viết, dường như vị đại biểu trên đã hiểu sai về vai trò và tác động của hạn mức tăng trưởng tín dụng đến doanh nghiệp và nền kinh tế nên mới đề nghị NHNN bỏ nó đi.

Cụ thể hơn, hạn mức tăng trưởng tín dụng đúng là sẽ hạn chế mức độ tăng trưởng tín dụng (tức “room” tín dụng theo cách hiểu của vị đại biểu) của từng tổ chức tín dụng theo ý kiến chủ quan của NHNN. Nhưng điều này không có nghĩa là doanh nghiệp là khách hàng của một tổ chức tín dụng cụ thể, ví dụ là ngân hàng A, cũng sẽ bị giới hạn mức độ cho vay một cách tương ứng. Bởi ngoài ngân hàng A thì doanh nghiệp còn có thể vay vốn ở ngân hàng B, C, E..., miễn là doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chuẩn để được vay vốn từ các ngân hàng này. Tất nhiên cũng phải có thêm điều kiện đủ là lãi suất cho vay của các ngân hàng này phải ở mức cạnh tranh, chấp nhận được bởi và làm cho doanh nghiệp muốn vay.

Với lý do... trật lất như thế này thì rõ ràng NHNN không có lý do gì để phải bỏ công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng, một công cụ mà cho đến nay NHNN luôn kiên định bảo vệ. Lưu ý thêm rằng người viết lập luận “hộ” cho NHNN như thế này không phải là để ủng hộ NHNN duy trì công cụ này. Thực tế, người viết đã đôi lần phân tích sự bất hợp lý của công cụ này, và sẽ tiếp tục lặp lại ý này trong phần sau của bài viết.

Tất nhiên, vị đại biểu trên có thể bổ sung thêm vào lập luận của mình rằng do các ngân hàng khác như B, C, E... cũng bị hạn chế tăng trưởng tín dụng (tăng trưởng tín dụng của họ cũng chỉ được phép ở một mức cụ thể nào đó, ví dụ như 12% hoặc 18% trong năm, chứ không phải là vô hạn) nên rốt cuộc doanh nghiệp đi vay từ các ngân hàng này cũng sẽ bị hạn chế số vốn vay được.

Cho dù vậy thì cần nhớ rằng, về nguyên tắc, sẽ không thể, không bao giờ có việc một ngân hàng trung ương lại để cho doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu thì cũng được hệ thống ngân hàng đáp ứng (vô điều kiện). Hệ thống ngân hàng có thể cung cấp bao nhiêu tín dụng cho nền kinh tế phụ thuộc vào cung tiền của ngân hàng trung ương, được tính toán dựa trên nhiều yếu tố như lạm phát và việc làm. Do đó, giả sử ngân hàng trung ương (trong trường hợp Việt Nam là NHNN) chỉ muốn tăng trưởng tín dụng của cả nền kinh tế ở một con số cụ thể, chẳng hạn là 10%, thì họ cũng chỉ bơm ra nền kinh tế một lượng tiền phù hợp với con số này. Với một lượng cung tiền có hạn, các ngân hàng phải cạnh tranh cho vay một cách tối ưu nhất (khách vay tốt, lãi suất cao), còn khách hàng cũng sẽ chỉ vay một các tối ưu nhất (lãi suất thấp, điều kiện dễ).

Các yếu tố cạn tranh mang tính thị trường như vậy sẽ dẫn đến tình trạng luôn chỉ có một số doanh nghiệp được vay/vay được số tiền mong muốn với mức lãi suất “chấp nhận được”. Do đó, dù NHNN không áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thì rốt cuộc cũng sẽ không có chuyện doanh nghiệp vay vốn dễ và tùy thích theo nhu cầu. Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, dù NHNN có nới hạn mức tăng trưởng tín dụng, hoặc tốt nhất là bỏ cái này đi, thì doanh nghiệp vẫn khó, càng khó tiếp cận tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, hạn mức tăng trưởng tín dụng không phải là cái cần bị phê phán trong trường hợp cụ thể của vị đại biểu này.

Nói như trên không có nghĩa là NHNN đã đúng khi kiên định với hạn mức này. Trong phản hồi của mình trước đề nghị của vị đại biểu trên, NHNN cũng đưa ra những lý do... trật lất, không giải thích hợp lý được tại sao phải duy trì hạn mức này.

Cụ thể, NHNN cho rằng tăng trưởng tín dụng quá cao không chỉ tiềm ẩn rủi ro bất ổn vĩ mô chung cho nền kinh tế mà còn gia tăng rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống ngân hàng. Để đảm bảo an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ nợ xấu, thời gian qua, NHNN kiên định kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng theo hướng đưa ra chỉ tiêu tín dụng định hướng đầu năm và thông báo cho từng tổ chức tín dụng.

Có thể thấy ngay lý do này của NHNN chính là điều đã được phân tích ở đoạn trên. Theo đó, hoàn toàn đúng đắn khi NHNN cẩn trọng với rủi ro đến từ việc tín dụng tăng trưởng quá cao. Nhưng cũng như đã nói, để quản lý tăng trưởng tín dụng thì NHNN chỉ cần quản lý cung tiền – một trong những chức năng và sứ mệnh cơ bản của ngân hàng trung ương, mà cụ thể trong trường hợp muốn hạn chế tăng trưởng tín dụng thì chỉ cần hạn chế tăng cung tiền/hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ – chứ không phải là quay ra ban hành và áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng.

Cuối cùng, tuy nhiều người, gồm người viết và các tổ chức nước ngoài như IMF và Moody’s, đã chỉ ra những bất cập của hạn mức tăng trưởng tín dụng nhưng NHNN vẫn “kiên định” duy trì hạn mức này. Điều này đặt ra câu hỏi, phải chăng NHNN còn ẩn ý gì đó mà họ không tiện nói ra để tiếp tục kiên định như vậy?

Một phần câu trả lời này có thể nằm trong ý đồ sử dụng hạn mức này như “cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng chính sách tiền tệ của NHNN, bao gồm tự nguyện cắt giảm lãi suất cho vay với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 (2).

Nếu đúng vậy thì dễ hiểu tại sao NHNN lại luôn bảo vệ công cụ hạn mức này nhưng luôn bằng những lý do... trật lất! 

------

(1) https://cafef.vn/nhnn-phan-hoi-de-xuat-thay-room-tin-dung-bang-quan-ly-he-so-an-toan-von-20210909213202623.chn

(2) https://baodautu.vn/giam-lai-suat-va-cu-ca-rot-mang-ten-room-tin-dung-d147542.html


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).