Sunday 5 September 2021

Lý giải việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ (Bài đăn trên KTSG, 6/9/2021)

https://thesaigontimes.vn/ly-giai-viec-giam-lai-suat-tien-gui-vuot-du-tru-bat-buoc-bang-ngoai-te/

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành Quyết định 1349/QĐ-NHNN về mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại NHNN, áp dụng từ ngày 1-9-2021.

Theo đó, NHNN giữ nguyên lãi suất áp dụng đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng và ngoại tệ của tổ chức tín dụng tại NHNN. Cụ thể, lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VNĐ duy trì ở mức 0,5%/năm. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 0%/năm, lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng VNĐ là 0%/năm. Đồng thời, NHNN giảm lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, từ 0,05%/năm theo quyết định đang áp dụng xuống 0%/năm từ 1-9.

Xoay quanh tỷ lệ và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng như tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc, hiện vẫn có nhiều điều chưa được hiểu rõ hoặc lý giải sai lầm.

Dự trữ bắt buộc và chính sách tiền tệ

Khi NHNN giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc, điều này đồng nghĩa với việc giải phóng thêm vốn để tổ chức tín dụng cho vay ra nền kinh tế. Như vậy, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một hành động nới lỏng chính sách tiền tệ, và ngược lại.

Thế còn giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc? Khi hạ lãi suất này, NHNN chỉ trả cho tổ chức tín dụng số tiền lãi ít hơn cho lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc mà họ gửi bắt buộc tại NHNN. Do đó, hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc làm giảm bớt lượng tiền mà tổ chức tín dụng có thể cho vay nền kinh tế. Nói cách khác, hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tương đương với hành động thắt chặt tiền tệ của NHNN, và ngược lại.

Sự việc trở nên phức tạp hơn đối với hành động giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của NHNN. Ngoài khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHNN tính theo dư nợ tín dụng, tổ chức tín dụng vì một số lý do nào đó, chẳng hạn như dư thừa vốn (tạm thời) mà không thể/không muốn cho vay lẫn nhau hoặc cho vay ra nền kinh tế, lại gửi tại NHNN một số tiền vượt quá số tiền gửi bắt buộc này để vừa hưởng lãi, vừa đảm bảo thanh khoản, an toàn.

NHNN giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc làm giảm động lực gửi tiền của tổ chức tín dụng tại NHNN, đồng nghĩa với việc khuyến khích họ cho vay ra nền kinh tế thay vì gửi tại NHNN, vốn tương đương với việc làm giảm cung tiền. Nói cách khác, giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc là hành động góp phần đảm bảo cung tiền không bị suy giảm, khi các yếu tố khác không thay đổi.

Nhưng từ góc độ tiền lãi, việc NHNN giảm tiền trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc cũng có thể coi là một hành động có tác dụng thắt chặt tiền tệ, như nói ở đoạn về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc nói trên. Tuy nhiên, do tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng tại NHNN, nếu có, bao giờ cũng lớn hơn lãi tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc mà NHNN trả cho họ, nên về toàn cục thì hành động giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của NHNN vẫn có tác dụng góp phần giữ cho cung tiền không bị ảnh hưởng (thay đổi).

Dự trữ bắt buộc và ngân sách nhà nước

Một số người vẫn lý giải việc NHNN giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và/hoặc tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc là để tiết kiệm cho ngân sách nhà nước. Có lẽ lý giải này xuất phát từ quan niệm sai lầm rằng vì NHNN là một cơ quan cấp bộ của Chính phủ nên tiền chi ra từ NHNN cũng chính là tiền chi ra từ ngân sách.

Như trên đã phân tích, khoản tiền mà NHNN “tiết kiệm” được từ giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc hay tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc chỉ có tác dụng đến cung tiền, và NHNN không được chuyển khoản “tiết kiệm” này vào ngân sách. Cần nhớ rằng ngân sách (Bộ Tài chính) muốn vay (không phải ”thu”) từ NHNN thì phải phát hành trái phiếu để NHNN thông qua hệ thống ngân hàng thương mại mua vào. Tất nhiên, luật Việt Nam hiện cũng cho phép Bộ Tài chính được vay trực tiếp NHNN trong một số trường hợp đặc biệt (và xin nhấn mạnh lại là vay, chứ không phải thu).

Tại sao lại giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lần này?

Chắc chắn hành động liên quan đến dự trữ bắt buộc lần này của NHNN cũng để lại không ít dấu hỏi.

Thứ nhất, tại sao lại chỉ giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, mà không phải là (cả) tiền đồng?

Trả lời: Đơn giản vì lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng đã là 0% theo quy định hiện hành. Việc hạ lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng xuống mức âm là chưa có tiền lệ tại Việt Nam, và chỉ nên được xem xét trong tình huống nền kinh tế phải đối mặt với tình trạng thiểu phát – là điều không đúng với thực tại.

Thứ hai, tại sao lại giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ?

Trả lời: Như trên đã nói, có thể vẫn còn một số tổ chức tín dụng có dư thừa ngoại tệ không muốn bán/cho vay ra nền kinh tế nên chọn gửi vào NHNN, vượt quá mức tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ theo quy định, dù chỉ để hưởng lãi suất 0,05% như hiện tại. Bằng việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ tiền gửi bằng ngoại tệ này xuống 0%, và trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào như thể hiện qua sự mạnh lên của tiền đồng so với đô la, nhất là xét đến mục tiêu giảm đô la hóa, hành động này của NHNN có tác dụng khuyến khích tổ chức tín dụng chuyển sang quan hệ mua-bán ngoại tệ thay vì tín dụng (vay-mượn) với NHNN và với nền kinh tế. Việc NHNN giảm vay ngoại tệ từ tổ chức tín dụng thông qua hạ lãi suất này cũng làm giảm rủi ro cho quỹ dự trữ ngoại hối khi đô la đảo chiều, mạnh lên so với tiền đồng.

Thứ ba, tóm lại, việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là hành động nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ trong bối cảnh chính sách tiền tệ được kỳ vọng nới lỏng thêm nữa như hiện nay?

Trả lời: Xét đến cùng, việc giảm vay-mượn ngoại tệ giữa tổ chức tín dụng với NHNN và với nền kinh tế làm giảm nạn đô la hóa nên cùng một lượng tiền cung ứng như hiện tại, việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ có tác động tương đương việc tăng cung tiền, nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN, bởi mức độ thay thế tiền đồng bằng ngoại tệ trong các giao dịch sẽ giảm đi.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).