Sunday 15 May 2022

Làm thế nào để ngăn chặn vi phạm công bố thông tin? (Bài đăng trên KTSG, 15/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/lam-the-nao-de-ngan-chan-vi-pham-cong-bo-thong-tin/

Ngày 6/5, Tập đoàn FLC đã gửi lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) và Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM tài liệu chứa các thông tin cần cải chính và công bố bổ sung theo quyết định xử phạt ngày 24/3.

Báo cáo của FLC bổ sung 51 nghị quyết Hội đồng quản trị (HĐQT) về giao dịch giữa FLC với các bên liên quan trong giai đoạn từ 24/3/2020 đến 13/5/2021. Đáng chú ý, đây là các thông tin phải công bố trong vòng 24 giờ theo Thông tư 96/2020 nhưng chỉ được FLC công bố ngày 6/5 khi bị yêu cầu theo quyết định xử phạt nói trên.

Vụ việc trên cho thấy FLC đã cố tình che giấu thông tin và họ đã có thể “thoát”, tức là không ai biết, kể cả cơ quan chức năng, nếu không bị vướng vào vụ việc lùm xùm vừa qua về thao túng chứng khoán dẫn đến bắt tạm giam ông Trịnh Văn Quyết, Chủ tịch FLC và cùng với đó là cuộc điều tra FLC.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để ngăn ngừa và kịp thời phát hiện các vụ việc tương tự về che giấu, gian trá thông tin của doanh nghiệp, vốn sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của thị trường và quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư lương thiện.

Giải pháp trước tiên đương nhiên phải là nâng cao năng lực và trách nhiệm giám sát, kiểm tra và phát hiện sai phạm của cơ quan chức năng là UBCK. Nhưng trên thị trường chứng khoán có đến hàng ngàn doanh nghiệp phát hành, nên UBCK có thể nại lý do này để nói rằng họ sẽ không thể giám sát, thanh tra từng doanh nghiệp trong số hàng ngàn doanh nghiệp này để phát hiện ra sai phạm, và, do đó, vụ việc không công bố thông tin của FLC tuy “đáng tiếc” nhưng... bình thường.

Tuy lý do trên có phần hợp lý nhưng từ góc độ nhà quản lý, nó không thể là lý do, chí ít bởi thanh tra của UBCK đã có thể hoạt động tích cực và hiệu quả hơn để thanh tra và phát hiện sớm nhiều vụ việc tại nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có các biểu hiện bất thường. Sự tích cực và hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát của UBCK cũng sẽ là một yếu tố hữu hiệu góp phần giảm thiểu tâm lý làm liều, cố tình sai phạm của lãnh đạo doanh nghiệp.

Ngoài ra, giám sát, kiểm tra chỉ là một trong những công cụ chức năng mà UBCK có. Họ đã có thể làm cho các doanh nghiệp phải tự giác mà công bố thông tin nếu không muốn đánh đổi lấy những hậu quả pháp lý nghiêm trọng khi vi phạm quy định và bị phát giác.

Đáng tiếc là quy định pháp luật hiện tại có thể là quá nhẹ tay với những hành vi vi phạm kiểu này, và việc xử lý vi phạm cũng chỉ rộ lên trong thời gian gần đây chứ trước đó thì khá... yên tĩnh. Chẳng hạn, cũng FLC, cũng vi phạm cùng loại, họ chỉ bị phạt 100 triệu đồng hồi tháng 3. Rõ ràng là so với hàng loạt giao dịch giấu diếm với các bên liên đới ở quy mô lên đến hàng ngàn tỷ đồng mỗi giao dịch thì mức phạt/hậu quả pháp lý này là quá nhỏ nhoi so với cái lợi tiềm năng mà doanh nghiệp thu được từ sự gian dối này, nên không đủ sức răn đe doanh nghiệp làm bậy. Nói cách khác, các hành vi che giấu, gian dối thông tin cần phải được xử lý mạnh tay như hành vi thao túng thị trường và trần mức xử phạt cần được tăng mạnh hơn nữa, kể cả xử lý hình sự thì mới mong hạn chế và ngăn chặn phần nào các sai phạm kiểu này.

UBCK cũng đã có thể gián tiếp ngăn chặn các hành vi vi phạm công bố thông tin thông qua siết chặt trách nhiệm của các công ty kiểm toán. Về nguyên tắc, doanh nghiệp khó mà giấu/”chế biến” được các thông tin cần công bố nếu công ty kiểm toán làm việc chuyên nghiệp và có trách nhiệm cao. Tuy nhiên, ngay trong vụ việc vi phạm của FLC hồi tháng 3, FLC bị phạt 200 triệu đồng cho hành vi không trình bày khoản chênh lệch 70,13 tỉ đồng đánh giá tăng tài sản vào thu nhập khác, dẫn đến sai lệch số liệu trong báo cáo tài chính bán niên năm 2021 soát xét do FLC công bố nhưng công ty kiểm toán liên quan không thấy bị xử lý gì (1). Bởi vậy, UBCK nói riêng và Bộ Tài chính nói chung cần xây dựng và quy định các hình thức xử lý cụ thể với các công ty kiểm toán không thực hiện đúng và đầy đủ trách nhiệm kiểm toán doanh nghiệp của mình.

Sau cùng, UBCK đã có thể khắc phục hạn chế về năng lực giám sát và kiểm tra của mình đối với các doanh nghiệp niêm yết trên nhiều phương diện, gồm cả việc công bố thông tin, bằng việc khuyến khích, tăng cường “tai mắt nhân dân”, phát hiện và tố cáo các vi phạm của (lãnh đạo) doanh nghiệp, với các hình thức thưởng vật chất (thậm chí tỷ lệ với lợi ích mà doanh nghiệp sẽ thu được một cách phi pháp) và bảo vệ người tố giác thích hợp. Cơ chế khuyến khích tố giác này cần được đưa vào thành các quy định luật cụ thể.

-----

https://laodong.vn/kinh-te/hang-loat-doanh-nghiep-bi-xu-phat-nang-vi-vi-pham-cong-bo-thong-tin-1027891.ldo 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).