Thursday 12 May 2022

Ném chuột không để vỡ bình (Bài đăng trên KTSG số 18-2022 4/5/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-18-2022-ai-dang-nam-giu-trai-phieu-doanh-nghiep/

Việc lành mạnh hóa thị trường tài chính sau nhiều vụ lùm xùm xảy ra là một việc làm cần thiết và khẩn cấp. Tuy vậy, như là một phần hậu quả của công việc này, thị trường chứng khoán và bất động sản của Việt Nam dường như đã gánh chịu hậu quả không nhỏ, với giá nhiều cổ phiếu “nằm sàn” la liệt trong nhiều phiên, còn các doanh nghiệp bất động sản thì cũng lao đao, phải đối mặt với tương lai khá bất định bởi chủ trương siết chặt tác dụng ngân hàng vào ngành này. Chưa kể một số nạn nhân bất đắc dĩ của các vụ phạm luật như ở vụ Tân Hoàng Minh chẳng còn biết “bắc thang hỏi ai” ngoài căng băng rôn nơi cửa quan kêu cứu.

Có thể liên tưởng các động thái liên quan hiện nay của cơ quan chức năng trên thị trường tài chính của Việt Nam đến hành động “ném chuột”. Còn việc thị trường suy sụp, nhà đầu tư vô tội thì hoảng hốt và bất lực khi thấy tài sản của mình bốc hơi mà không biết kêu ai thì gợi đến hình ảnh chiếc bình có chuột đang lảo đảo chực rơi vỡ.

Cần làm gì và như thế nào để lũ chuột thì giảm thiểu, bị hốt còn cái bình thì vẫn an nhiên?

Về phía chính quyền, các cơ quan chức năng, câu hỏi cần trả lời trước khi tiến hành bất cứ hành động chế tài nào là hành động này có đúng luật không. Thiết nghĩ ở đây ta không cần phải bàn đến tầm quan trọng của việc tuân thủ luật pháp của ngay cơ quan chính quyền đối với việc giữ ổn định cái bình.

Từ góc độ tuân thủ luật pháp, một số hành động của cơ quan chức năng gần đây cho thấy câu trả lời cho câu hỏi trên (có đúng luật không) là... không, hoặc ít ra thì chưa hẳn. Chẳng hạn, đâu là cơ sở pháp lý cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định hủy bỏ 9 đợt phát hành trái phiếu của Tân Hoàng Minh? Theo ủy ban này, đó là “căn cứ vào hồ sơ, tài liệu và đề nghị của cơ quan có thẩm quyền về việc hủy bỏ các đợt phát hành trái phiếu do có hành vi công bố thông tin sai sự thật, che giấu thông tin trong hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ” (1). Nhưng việc “căn cứ” và cả cái sự “đề nghị” này cũng như cái sự tuân theo cái “đề nghị” đó để ra quyết định hủy bỏ phát hành có đúng luật không, căn cứ theo điểm nào, khoản nào, điều nào của luật nào?

Tiếp đó, trước khi ném chuột, tức thực hiện các hành động chế tài mà giả sử là đúng luật, nhà chức trách cần phải nhìn trước đến các hậu quả của hành động này để giảm thiểu khả năng đổ vỡ của cái bình. Họ cần thấy trước rằng sẽ có nạn nhân vô tội và một bầu không khí hoảng loạn bao trùm nếu không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra và đâu là sự thật. Họ cũng cần nhìn trước, chuẩn bị sẵn các giải pháp có thể để bảo vệ quyền lợi và/hoặc giảm thiểu thiệt hại cho các nạn nhân. 

Nhưng tiếc rằng, cũng lấy ngay ví dụ về vụ Tân Hoàng Minh, Ủy ban Chứng khoán lại đá quả bóng trách nhiệm sang Bộ Công an trước yêu cầu chính đáng về phương hướng giải quyết quyền lợi của các nhà đầu tư “lỡ mua” trái phiếu Tân Hoàng Minh, mặc dù chính ủy ban là nơi đưa ra quyết định hủy bỏ phát hành chứ không phải Bộ Công an. Diễn tiến này càng bôi đậm thêm dấu hỏi về sự tuân thủ pháp luật và nỗ lực minh bạch hóa, cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan chức năng.

Về phía doanh nghiệp, nếu không muốn mình thành những con chuột xấu xa thông thường, hoặc tệ hơn, chuột bị chọn ra để làm mẫu (thí điểm), trong mắt “giới ném chuột” thì tốt nhất hãy lấy mấy chữ “đạo đức kinh doanh” làm đầu. Dù vẫn có thể bị hàm oan trong một bầu không khí hừng hực đấu tố, quyết liệt truy tìm tội đồ, nhưng những doanh nghiệp kinh doanh lương thiện, đúng luật vẫn có nhiều khả năng thoát nạn, bình yên vô sự hơn hẳn các doanh nghiệp “có mùi”, bởi luật pháp ít nhiều vẫn là của chung, vẫn tồn tại chứ không luôn chỉ là của riêng của ai đó, mặc sức múa may.

Sự kịp thời phát hiện và cương quyết thực thi một cách đúng đắn các quy định pháp luật của các cơ quan chức năng xử lý các hành vi phạm pháp của các doanh nghiệp cũng là một biện pháp tự nhiên tiết chế sự sinh sôi nẩy nở của lũ chuột. Đây hiện vẫn là một lĩnh vực còn rất nhiều bất cập và đã được đề cập sơ bộ trong số báo trước.

Về phía nhà đầu tư, họ đa phần là nạn nhân, nhưng lẫn trong số họ cũng có không ít chuột. Không nói đến những con chuột bự trong các vụ lũng đoạn thị trường đến hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng, có không ít nhà đầu tư xấu xa cỡ chuột nhắt tiến hành các vụ gian lận chỉ từ vài trăm triệu đồng đang hòa lẫn vào đám đông nhà đầu tư, rất khó để cơ quan chức năng nhận biết và xử lý. Để làm được việc này thì cần xây dựng, củng cố và khuyến khích cơ chế tố cáo và xử lý các tố cáo hữu hiệu trên thị trường tài chính. Nhà đầu tư cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp chân chính cần cho thấy được quyền lợi sát sườn của mình hiện hữu trong cơ chế tố cáo và xử lý gian lận, phạm pháp trên thị trường tài chính này.

------

(1) https://plo.vn/nong-huy-bo-9-dot-chao-ban-trai-phieu-cua-tap-doan-tan-hoang-minh-post674390.html  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).