Sunday 1 May 2022

Lành mạnh hóa thị trường tài chính một cách… lành mạnh! (Bài đăng trên KTSG, 1/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/lanh-manh-hoa-thi-truong-tai-chinh-mot-cach-lanh-manh/

Gần đây, các thông điệp mạnh mẽ về quyết tâm làm trong sạch, lành mạnh hóa thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp liên tục được đưa ra, từ cấp cao nhất trong hệ thống chính quyền đến các bộ, ngành và cơ quan chủ quản. Châm ngòi cho diễn biến này là vài ba vụ việc phạm luật dẫn đến bắt bớ xảy ra trên thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp.

Nguồn cơn

Nguồn cơn trực tiếp của các vụ vi phạm pháp luật dẫn đến bắt bớ hẳn nhiên là sự... vi phạm pháp luật của một số cá nhân liên đới, là lãnh đạo tại một số doanh nghiệp. Nhưng, hỏi một cách cắc cớ, tại sao điều này (sự vi phạm) lại xảy ra? Câu trả lời đương nhiên sẽ là, tại các cá nhân này... cố tình vi phạm.

Tuy nhiên, sự thật/nguyên nhân không chỉ có thế.    

Ví dụ với vụ việc bán cổ phiếu FLC không công bố trước của ông Trịnh Văn Quyết gần đây. Đây là sự vi phạm pháp luật lần thứ hai. Nếu như lần vi phạm lần trước xảy ra cách đây vài năm, tuy ở quy mô nhỏ hơn lần thứ hai này nhưng bản chất vi phạm là như nhau, mà bị xử lý mạnh tay như lần này thì ông Quyết không chắc đã được tự do ở ngoài đời để mà tiến hành một vụ thao túng thị trường trắng trợn thứ hai là lần này.

Vậy, một trong những nguồn cơn làm thị trường tài chính Việt Nam phát triển không an toàn, lành mạnh chính là thái độ dung túng, sự vô trách nhiệm của các cơ quan chức năng với những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của các cá nhân và tổ chức tham gia thị trường.

Với vụ ông Đỗ Anh Dũng, Chủ tịch, Tổng Giám đốc của tập đoàn Tân Hoàng Minh bị khởi tố tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do “đã có hành vi gian dối, sử dụng các công ty thành viên phát hành 9 đợt trái phiếu trái quy định pháp luật, tổng trị giá 10.300 tỉ đồng, để huy động tiền của nhà đầu tư nhưng không sử dụng vào các hoạt động kinh doanh theo hồ sơ phát hành trái phiếu”, có thể thấy cái “tội” này (xin không bàn đến là đúng hay sai ở đây) đã diễn ra công khai trước mắt các cơ quan chức năng trong một thời gian không phải là ngắn (từ tháng 7/2021) và quy mô không phải là nhỏ. Vậy nhưng chỉ đến gần đây hơn thì Bộ Tài chính mới “chỉ đạo” và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước mới ban hành quyết định hủy bỏ 9 đợt phát hành trái phiếu này căn cứ vào “đề nghị của cơ quan có thẩm quyền” (1).

Nói các khác, hành vi vi phạm của ông Dũng (sử dụng tiền phát hành trái phiếu không đúng mục đích nêu trong hồ sơ phát hành trái phiếu) đã được quy định rõ trong luật định hiện hành nhưng chỉ được phát hiện và xử lý khi có đề nghị của cơ quan có thẩm quyền (Bộ Công an?), chứ không phải bởi cơ quan quản lý, giám sát trực tiếp là Ủy ban Chứng khoán và trên đó là Bộ Tài chính. Sự bất cập này, nếu không phải là sự bao che, vô trách nhiệm, thì hẳn phải là sự yếu kém về nghiệp vụ quản lý, theo dõi, giám sát thị trường của cơ quan chức năng khi đã để lọt lưới hành vi phạm pháp.

Giải pháp

Như đã phân tích ở trên, một phần nguồn cơn để các vụ vi phạm pháp luật xảy ra chính là sai phạm, bất cập từ phía các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, những điều bất cập này đã không được nhận biết và thừa nhận để lấy đó làm bài học và khắc phục. Một minh chứng rõ ràng là hầu như chưa có cá nhân nào, cơ quan nào bị quy trách nhiệm và bị xử lý một cách nghiêm túc, mạnh tay vì đã để xảy ra hết lùm xùm này đến lùm xùm khác.

Thay vào đó, dư luận lại được định hướng vào những vấn đề ngoài trách nhiệm của phía cơ quan chức năng như nhà đầu tư không chuyên nghiệp, hành vi gian lận để trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp, mua trái phiếu thông qua các hợp đồng đầu tư... Phía doanh nghiệp cũng bị quy cho nhiều vấn đề như phát hành với khối lượng lớn, lãi suất cao vượt quá năng lực tài chính của doanh nghiệp, vi phạm quy định về công bố thông tin, sử dụng vốn sai mục đích đã công bố, sai phạm của các tổ chức cung cấp dịch vụ trong việc cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch, chính xác...(2).

Hiển nhiên là những vấn đề về phía nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành, cung cấp dịch vụ như nêu trên là có thật, đã và đang tồn tại. Nhưng như thế thì mới cần đến sự quản lý, thanh tra, giám sát và ngăn chặn của cơ quan chức năng, và các cơ quan này mới có lý do để tồn tại và liên tục phình to.

Việc “đánh bùn sang ao” này không chỉ làm cho các vấn đề tiêu cực vẫn sẽ tiếp tục phát sinh vì không được khắc phục tận gốc rễ (sự yếu kém, bất cập của cơ quan chức năng). Điều đáng lo, quan ngại nhất là cơ quan chức năng sẽ cho ra đời những “giải pháp” theo hướng xiết chặt một cách không thỏa đáng, không liên quan gì đến những tồn tại và yếu kém chủ quan về phía cơ quan chức năng.

Ví dụ về các “giải pháp” này là thu hẹp quy định về mục đích phát hành trái phiếu, yêu cầu về tỷ lệ an toàn tài chính khi phát hành, quy định rõ loại trái phiếu nhà đầu tư cá nhân được mua và giao dịch...(2). Những quy định xiết chặt này thậm chí còn làm toát lên tinh thần “không quản được thì cấm”, vốn sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng đến sự phát triển bình thường của các thị trường tài chính như thông lệ trên thế giới mà tác giả đã đôi lần đề cập đến trước đây.

Quan trọng không kém, cho dù có được viện dẫn với mục đích lành mạnh hóa thị trường thì việc áp dụng thêm nhiều quy định theo hướng xiết chặt lại như thế này cũng chỉ làm khó những doanh nghiệp và nhà đầu tư lương thiện chứ không làm khó được những ai cố tình vi phạm bởi năng lực quản lý, giám sát và ngăn chặn của các cơ quan chức năng cũng chỉ đến thế và nếu họ không thực tâm, thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục, sửa đổi để nâng cao năng lực và trách nhiệm của mình.

-----

(1)    https://www.anninhthudo.vn/xu-ly-nghiem-to-chuc-tu-van-phat-hanh-dai-ly-phat-hanh-trai-phieu-tan-hoang-minh-neu-phat-hien-vi-pham-post501008.antd

https://dangcongsan.vn/kinh-te/siet-chat-quan-ly-giam-sat-de-phat-trien-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep-an-toan-607758.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).