https://thesaigontimes.vn/co-tien-phai-tieu-nhung-tranh-tieu-bang-moi-gia/
Việc phân bổ, giải
ngân vốn đầu tư công đang diễn ra rất chậm. Đến nay vẫn còn đến 11 bộ, ngành và 3 địa phương chưa
phân bổ vốn đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân 4 tháng đầu năm đạt 18,48% tương đương
cùng kỳ năm 2021, trong đó 17 bộ, cơ quan trung ương chưa giải ngân.
Ngoài phân bổ, giải
ngân chậm vốn đầu tư công, căn bệnh, nói theo cách nói của Chủ tịch Quốc hội
Vương Đình Huệ, “có tiền mà không tiêu được” (1) còn được thể hiện ở sự chậm chễ
tương tự trong việc thực hiện Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội
theo Nghị quyết 43 của Quốc hội, trong đó có gói chính sách tiền tệ, tài khóa 347 ngàn tỷ đồng, cũng như ba Chương trình mục tiêu quốc gia...
Trước khi chuyển
sang phần chính của bài, cần lưu ý mệnh đề “có tiền mà không tiêu được” thực ra
không hoàn toàn đúng, bởi tiền ở đây có là có một phần không nhỏ từ tiền đi vay
(tức của người khác). Nên cái sự “tiêu không được” nhiều khi lại là điều tốt,
nhất là so với khi tiêu vào những “lỗ đen”.
Theo ông Huệ thì
mấu chốt (của việc “tiêu tiền” chậm chễ này) là “do khâu chuẩn bị đầu tư còn yếu,
không kỹ lưỡng, chưa đáp ứng yêu cầu”.
Về nguyên
nhân này, có mấy điều cần
nói. Nếu các bộ, ngành, địa phương
đã chuẩn bị (kế hoạch) đầu tư và đã trình các cấp mà không được duyệt thông qua
thì nguyên nhân đương nhiên là nằm ở sự yếu kém về năng lực của các cơ quan chức
năng cấp dưới ở các bộ, ngành, địa phương.
Trong tình huống
này, một mặt cần xác định được cụ thể nơi yếu kém, phê bình, có biện pháp xử lý
người đứng đầu các cơ quan chức năng về năng lực bản thân họ và khả năng tổ chức
xây dựng bộ máy lập kế hoạch đầu tư có đủ khả năng của họ.
Nói là phải xử lý
người đứng đầu vậy thôi chứ hầu như chẳng có khi nào có “người đứng đầu” nào bị
“điểm danh” và chịu chế tài xử lý, kỷ luật gì cả. Ngay trong các văn bản pháp
luật liên quan, trong phần quy định về trách nhiệm của các chủ thể liên quan,
chỉ thấy có quy định trách nhiệm dưới dạng cơ quan này phải làm việc này, việc
kia, mà không bao giờ thấy có quy định chế tài cụ thể nếu các quy định về trách
nhiệm bị vi phạm.
Mặt khác, cần
hoan nghênh động thái dứt khoát không phê duyệt các kế hoạch “dưới chuẩn” của
các cấp, người đứng đầu có thẩm quyền phê duyệt. Sự chậm chễ phân bổ, giải ngân
đầu tư công trong những trường hợp này thậm chí còn là điểm tích cực nếu so với
việc cố gắng thúc đẩy phân bổ, giải ngân bằng mọi giá để rồi dẫn đến lãng phí,
thất thoát lớn. Cũng không thể loại trừ khả năng có chủ ý kéo dài việc chuẩn bị
(kế hoạch) đầu tư nhằm mục đích làm các dự án, kế hoạch đầu tư chất lượng xấu,
có động cơ trục lợi lồng ghép trong đó được thông qua vào phút chót trong sự vội
vàng hoàn thành kế hoạch mà bất chấp, bỏ qua các bước tuân thủ trong lập và triển
khai kế hoach đầu tư công.
Sự việc sẽ khác đi
nếu các bộ, ngành, địa phương vì một lý do nào đó mà vô trách nhiệm, cố tình không
lập kế hoạch đầu tư, không thúc ép lập kế hoạch và triển khai đầu tư, hoặc họ
chỉ làm cho có, để đối phó. Thực ra, cũng về nguyên tắc, sự thờ ơ với đầu tư
công kiểu này là hơi... lạ, bởi, nói không phải quá lời, đầu tư công trong nhiều
trường hợp được coi là “chùm khế ngọt” và, bởi vậy, các chủ thể liên đới thông
thường sẽ phải tích cực giành giật và thúc đẩy đầu tư công để... có tiền.
Có thể nghĩ đến một
số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Chẳng hạn như tâm lý nhiệm kỳ làm cho
người có chức trách không có động cơ triển khai và thúc đẩy đầu tư công. Hoặc họ
phải đối mặt với những trở ngại chủ quan và khách quan trong việc này, dẫn đến
tâm lý thà tránh còn hơn là “đâm đầu vào” để rồi lãnh trọn trách nhiệm khi mọi
việc diễn ra không theo đúng ý muốn, kế hoạch.
Trong những trường
hợp này thì vấn đề năng lực có thể tạm gác qua một bên và biện pháp xử lý cũng
không thể đơn giản chỉ là thay thế người đứng đầu bằng những người có năng lực,
trách nhiệm hơn. Chẳng hạn, Chính phủ cần xem lại như chính sách bổ nhiệm, hoặc
sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư công (trong một lĩnh vực cụ
thể) để có thể khai thông đầu tư công.
Thực tế thì các
giải pháp này không phải là mới, và Chính phủ năm nào cũng bày tỏ quyết tâm,
quyết liệt tháo gỡ các khó khăn để thúc đẩy giải ngân, đối phó tình trạng giải
ngân năm sau... chậm như năm trước (ví dụ như trong quý 1 năm nay). Nhưng rồi sự
việc vẫn không mấy tiến triển.
Từ góc độ của
Chính phủ, Phó thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, lý do việc triển khai chậm
là vì “quá nhiều việc” (2). Tuy nhiên, ông cũng khẳng định trong
gói 347.000 tỉ đồng thì tới nay cơ bản đã triển khai hết, như gói 38.400 tỉ đồng
tín dụng xã hội hay 40.000 tỉ đồng hỗ trợ lãi suất với doanh nghiệp, hợp tác
xã…chỉ còn lại danh mục dự án đầu tư. Ông Khái thêm rằng: “Trong thời gian hơn 3 tháng làm được những
chính sách này có thể nói là các bộ, ngành đã rất cố gắng mới được. Còn chậm ở
đây là chậm ở các dự án cơ sở hạ tầng, trong đó có cơ sở giao thông”. Ông cũng hứa “sẽ chỉ đạo các bộ,
ngành làm sớm việc này.
Ở đây có sự nhầm
lẫn. Chẳng hạn, về gói 40 ngàn tỷ đồng hỗ trợ lãi suất, hiện tại thì Ngân
hàng Nhà nước vẫn “đang gấp rút xây dựng
các văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa các chủ trương chung” (3). Không rõ có phải
vì “quá nhiều việc” hay không mà một bộ phận nhiệm vụ đầu tư công đã bị... bỏ
quên, nhầm lẫn nên đầu tư công vì thế mà mãi cứ ậm ạch?
Nếu cứ từ nguyên
nhân suy ra giải pháp thì e rằng giải pháp trong trường hợp này khó thực hiện.
Chẳng hạn, không lẽ lại kiến nghị Quốc hội trước khi muốn ra nghị quyết gì,
trao nhiệm vụ gì cho Chính phủ thì phải hỏi xem ý Chính phủ thế nào, có “kham”
nổi hay không? Dẫu sao, Quốc hội cũng cần rút kinh nghiệm để không kỳ vọng quá
nhiều vào Chính phủ, ít nhất trong lĩnh vực đầu tư công, trong bối cảnh năm nào
cũng thấy lặp lại (nhiều lần) điệp khúc giải ngân chậm, bất chấp các lời hứa và
quyết tâm của Chính phủ.
Dường như Quốc hội
cũng đã và đang ít nhiều tư duy theo hướng trên. Với gói 347 ngàn tỷ đồng, ông Huệ nhấn mạnh: “Theo
tinh thần nghị quyết của Quốc hội, đến 2023 nếu không giải ngân được thì trình Quốc
hội chấm dứt chứ không có chuyện đưa vào gói sau đó chuyển nguồn để làm lại. Nó
không đúng tính chất gói kích thích kinh tế” (2).
Giải pháp chấm dứt
này là hợp lý, không chỉ từ góc độ tránh thúc ép giải ngân bằng mọi giá như đề
cập ở trên. Xét trên khía cạnh cấp thiết và nguồn lực thực thi gói này, thì gói
tung ra vào thời điểm năm 2023 và quy mô 347 ngàn tỷ đồng trong bối cảnh ngân
sách ngày càng căng thẳng sẽ là lỗi nhịp và quá rủi ro cho nền kinh tế lúc đó.
Tóm lại, căn bệnh
kinh niên giải ngân chậm cho thấy năng lực hữu hạn của các nhiệm kỳ chính phủ
là điều rất khó có thể thay đổi, vì nhiều nguyên nhân. Xét thêm thực tế về nguồn
lực và tính hiệu quả hữu hạn của đầu tư công thì đầu tư công chỉ nên được triển
khai ở quy mô mà năng lực ngân sách và khả năng đảm đương của Chính phủ cho
phép. Thúc giục tăng mạnh quy mô và tốc độ giải ngân đầu tư công vượt quá những
năng lực này thường sẽ chỉ mang đến sự thất vọng/bại và lãng phí ngân
sách.
------
(1)
https://thanhnien.vn/chu-tich-quoc-hoi-chung-ta-co-tien-ma-khong-tieu-duoc-thi-lang-phi-rat-lon-post1458599.html?io_utm_social=fanpage
(2)
https://thanhnien.vn/sot-ruot-vi-goi-ho-tro-kinh-te-347-000-ti-dong-giai-ngan-cham-post1457594.html
https://thoibaotaichinhvietnam.vn/goi-ho-tro-2-lai-suat-chinh-sach-dung-dan-tham-thau-vao-nen-kinh-te-104416.html
No comments:
Post a Comment