Monday 23 May 2022

Có tiền, phải tiêu, nhưng tránh tiêu bằng mọi giá (Bài đăng trên KTSG, 23/5/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/co-tien-phai-tieu-nhung-tranh-tieu-bang-moi-gia/

Việc phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công đang diễn ra rất chậm. Đến nay vẫn còn đến 11 bộ, ngành và 3 địa phương chưa phân bổ vốn đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân 4 tháng đầu năm đạt 18,48% tương đương cùng kỳ năm 2021, trong đó 17 bộ, cơ quan trung ương chưa giải ngân.

Ngoài phân bổ, giải ngân chậm vốn đầu tư công, căn bệnh, nói theo cách nói của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, “có tiền mà không tiêu được” (1) còn được thể hiện ở sự chậm chễ tương tự trong việc thực hiện Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết 43 của Quốc hội, trong đó có gói chính sách tiền tệ, tài khóa 347 ngàn tỷ đồng, cũng như ba Chương trình mục tiêu quốc gia...

Trước khi chuyển sang phần chính của bài, cần lưu ý mệnh đề “có tiền mà không tiêu được” thực ra không hoàn toàn đúng, bởi tiền ở đây có là có một phần không nhỏ từ tiền đi vay (tức của người khác). Nên cái sự “tiêu không được” nhiều khi lại là điều tốt, nhất là so với khi tiêu vào những “lỗ đen”.

Theo ông Huệ thì mấu chốt (của việc “tiêu tiền” chậm chễ này) là “do khâu chuẩn bị đầu tư còn yếu, không kỹ lưỡng, chưa đáp ứng yêu cầu”.

V nguyên nhân này, có mấy điều cần nói. Nếu các bộ, ngành, địa phương đã chuẩn bị (kế hoạch) đầu tư và đã trình các cấp mà không được duyệt thông qua thì nguyên nhân đương nhiên là nằm ở sự yếu kém về năng lực của các cơ quan chức năng cấp dưới ở các bộ, ngành, địa phương.

Trong tình huống này, một mặt cần xác định được cụ thể nơi yếu kém, phê bình, có biện pháp xử lý người đứng đầu các cơ quan chức năng về năng lực bản thân họ và khả năng tổ chức xây dựng bộ máy lập kế hoạch đầu tư có đủ khả năng của họ.

Nói là phải xử lý người đứng đầu vậy thôi chứ hầu như chẳng có khi nào có “người đứng đầu” nào bị “điểm danh” và chịu chế tài xử lý, kỷ luật gì cả. Ngay trong các văn bản pháp luật liên quan, trong phần quy định về trách nhiệm của các chủ thể liên quan, chỉ thấy có quy định trách nhiệm dưới dạng cơ quan này phải làm việc này, việc kia, mà không bao giờ thấy có quy định chế tài cụ thể nếu các quy định về trách nhiệm bị vi phạm.   

Mặt khác, cần hoan nghênh động thái dứt khoát không phê duyệt các kế hoạch “dưới chuẩn” của các cấp, người đứng đầu có thẩm quyền phê duyệt. Sự chậm chễ phân bổ, giải ngân đầu tư công trong những trường hợp này thậm chí còn là điểm tích cực nếu so với việc cố gắng thúc đẩy phân bổ, giải ngân bằng mọi giá để rồi dẫn đến lãng phí, thất thoát lớn. Cũng không thể loại trừ khả năng có chủ ý kéo dài việc chuẩn bị (kế hoạch) đầu tư nhằm mục đích làm các dự án, kế hoạch đầu tư chất lượng xấu, có động cơ trục lợi lồng ghép trong đó được thông qua vào phút chót trong sự vội vàng hoàn thành kế hoạch mà bất chấp, bỏ qua các bước tuân thủ trong lập và triển khai kế hoach đầu tư công.

Sự việc sẽ khác đi nếu các bộ, ngành, địa phương vì một lý do nào đó mà vô trách nhiệm, cố tình không lập kế hoạch đầu tư, không thúc ép lập kế hoạch và triển khai đầu tư, hoặc họ chỉ làm cho có, để đối phó. Thực ra, cũng về nguyên tắc, sự thờ ơ với đầu tư công kiểu này là hơi... lạ, bởi, nói không phải quá lời, đầu tư công trong nhiều trường hợp được coi là “chùm khế ngọt” và, bởi vậy, các chủ thể liên đới thông thường sẽ phải tích cực giành giật và thúc đẩy đầu tư công để... có tiền.

Có thể nghĩ đến một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Chẳng hạn như tâm lý nhiệm kỳ làm cho người có chức trách không có động cơ triển khai và thúc đẩy đầu tư công. Hoặc họ phải đối mặt với những trở ngại chủ quan và khách quan trong việc này, dẫn đến tâm lý thà tránh còn hơn là “đâm đầu vào” để rồi lãnh trọn trách nhiệm khi mọi việc diễn ra không theo đúng ý muốn, kế hoạch.

Trong những trường hợp này thì vấn đề năng lực có thể tạm gác qua một bên và biện pháp xử lý cũng không thể đơn giản chỉ là thay thế người đứng đầu bằng những người có năng lực, trách nhiệm hơn. Chẳng hạn, Chính phủ cần xem lại như chính sách bổ nhiệm, hoặc sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư công (trong một lĩnh vực cụ thể) để có thể khai thông đầu tư công.

Thực tế thì các giải pháp này không phải là mới, và Chính phủ năm nào cũng bày tỏ quyết tâm, quyết liệt tháo gỡ các khó khăn để thúc đẩy giải ngân, đối phó tình trạng giải ngân năm sau... chậm như năm trước (ví dụ như trong quý 1 năm nay). Nhưng rồi sự việc vẫn không mấy tiến triển.  

Từ góc độ của Chính phủ, Phó thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, lý do việc triển khai chậm là vì “quá nhiều việc” (2). Tuy nhiên, ông cũng khẳng định trong gói 347.000 tỉ đồng thì tới nay cơ bản đã triển khai hết, như gói 38.400 tỉ đồng tín dụng xã hội hay 40.000 tỉ đồng hỗ trợ lãi suất với doanh nghiệp, hợp tác xã…chỉ còn lại danh mục dự án đầu tư. Ông Khái thêm rằng: “Trong thời gian hơn 3 tháng làm được những chính sách này có thể nói là các bộ, ngành đã rất cố gắng mới được. Còn chậm ở đây là chậm ở các dự án cơ sở hạ tầng, trong đó có cơ sở giao thông”. Ông cũng hứa “sẽ chỉ đạo các bộ, ngành làm sớm việc này.

Ở đây có sự nhầm lẫn. Chẳng hạn, về gói 40 ngàn tỷ đồng hỗ trợ lãi suất, hiện tại thì Ngân hàng  Nhà nước vẫn “đang gấp rút xây dựng các văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa các chủ trương chung” (3). Không rõ có phải vì “quá nhiều việc” hay không mà một bộ phận nhiệm vụ đầu tư công đã bị... bỏ quên, nhầm lẫn nên đầu tư công vì thế mà mãi cứ ậm ạch?

Nếu cứ từ nguyên nhân suy ra giải pháp thì e rằng giải pháp trong trường hợp này khó thực hiện. Chẳng hạn, không lẽ lại kiến nghị Quốc hội trước khi muốn ra nghị quyết gì, trao nhiệm vụ gì cho Chính phủ thì phải hỏi xem ý Chính phủ thế nào, có “kham” nổi hay không? Dẫu sao, Quốc hội cũng cần rút kinh nghiệm để không kỳ vọng quá nhiều vào Chính phủ, ít nhất trong lĩnh vực đầu tư công, trong bối cảnh năm nào cũng thấy lặp lại (nhiều lần) điệp khúc giải ngân chậm, bất chấp các lời hứa và quyết tâm của Chính phủ.

ờng như Quốc hội cũng đã và đang ít nhiều tư duy theo hướng trên. Với gói 347 ngàn tỷ đồng, ông Huệ nhấn mạnh: “Theo tinh thần nghị quyết của Quốc hội, đến 2023 nếu không giải ngân được thì trình Quốc hội chấm dứt chứ không có chuyện đưa vào gói sau đó chuyển nguồn để làm lại. Nó không đúng tính chất gói kích thích kinh tế” (2).

Giải pháp chấm dứt này là hợp lý, không chỉ từ góc độ tránh thúc ép giải ngân bằng mọi giá như đề cập ở trên. Xét trên khía cạnh cấp thiết và nguồn lực thực thi gói này, thì gói tung ra vào thời điểm năm 2023 và quy mô 347 ngàn tỷ đồng trong bối cảnh ngân sách ngày càng căng thẳng sẽ là lỗi nhịp và quá rủi ro cho nền kinh tế lúc đó.

Tóm lại, căn bệnh kinh niên giải ngân chậm cho thấy năng lực hữu hạn của các nhiệm kỳ chính phủ là điều rất khó có thể thay đổi, vì nhiều nguyên nhân. Xét thêm thực tế về nguồn lực và tính hiệu quả hữu hạn của đầu tư công thì đầu tư công chỉ nên được triển khai ở quy mô mà năng lực ngân sách và khả năng đảm đương của Chính phủ cho phép. Thúc giục tăng mạnh quy mô và tốc độ giải ngân đầu tư công vượt quá những năng lực này thường sẽ chỉ mang đến sự thất vọng/bại và lãng phí ngân sách.         

------

(1)    https://thanhnien.vn/chu-tich-quoc-hoi-chung-ta-co-tien-ma-khong-tieu-duoc-thi-lang-phi-rat-lon-post1458599.html?io_utm_social=fanpage

(2)    https://thanhnien.vn/sot-ruot-vi-goi-ho-tro-kinh-te-347-000-ti-dong-giai-ngan-cham-post1457594.html

https://thoibaotaichinhvietnam.vn/goi-ho-tro-2-lai-suat-chinh-sach-dung-dan-tham-thau-vao-nen-kinh-te-104416.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).