Tuesday 24 May 2022

Ổn định thị trường: ổn định cái gì và như thế nào? (Bài đăng trên KTSG, 24/5/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/on-dinh-thi-truong-on-dinh-cai-gi-va-nhu-the-nao/

Lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) mới đây đã gửi thông điệp qua giới truyền thông về các giải pháp nhằm ổn định thị trường chứng khoán trong nước (1).

UBCK có kỳ vọng lớn rằng thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ hồi phục và tăng trưởng trở lại trong năm 2022. Nhưng trong bối cảnh thị trường có thể còn có sự biến động mạnh, cơ quan quản lý đang đặc biệt ưu tiên các giải pháp ngắn hạn để hỗ trợ thị trường ổn định trở lại, trấn an tâm lý nhà đầu tư.

Cũng theo ủy ban này, “Chúng tôi đang dõi sát diễn biến tình hình kinh tế - chính trị, động thái chính sách của các nước trên thế giới, đánh giá tác động, ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam để kịp thời có các giải pháp phù hợp nhằm ổn định thị trường chứng khoán trong nước. Đồng thời, tích cực thông tin tuyên truyền nhằm ổn định tâm lý của nhà đầu tư, tăng cường lòng tin của các chủ thể tham gia thị trường, công chúng đầu tư trong và ngoài nước vào quyết tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Bộ Tài chính trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường chứng khoán minh bạch, công khai, an toàn, hiệu quả".

Hai đoạn trích thông điệp nói trên đều có hai chữ “ổn định” và chúng đều gắn liền với hai chữ khác là “thị trường” nên đương nhiên việc ổn định ở đây có thể hiểu là ổn định thị trường chứng khoán. 

Nhưng vậy thì ổn định thị trường chứng khoán cụ thể là ổn định cái gi? Phải chăng UBCK muốn ổn định chỉ số chứng khoán? Hay họ muốn ổn định tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán để nhà đầu tư bớt sợ hãi mà bán tháo cổ phiếu và/hoặc rời bỏ thị trường? Hay họ muốn cả hai điều này?

Nếu câu trả lời là UBCK muốn ổn định chỉ số chứng khoán thì câu hỏi tiếp theo là họ muốn chỉ số chứng khoán ngừng xu hướng lao dốc, chững lại ở điểm hiện tại (và, do đó, đạt được sự “ổn định”), hay họ muốn chỉ số này không chỉ ngừng lao dốc mà còn đảo chiều tăng lên (mức đỉnh cũ đạt được gần đây)?

Nếu UBCK trả lời rằng họ muốn chỉ số chứng khoán ngừng giảm và chững lại thì họ phải có cách nào đó, làm cái gì đó để ít nhất là một số cổ phiếu, nhóm cổ phiếu ngừng giảm giá. Đây là tham vọng quá tầm của UBCK, dù họ có thực hiện các giải pháp nêu ở trên hoặc bất cứ giải pháp nào có thể nghĩ ra, kể cả giải pháp mang ngân sách nhà nước ra để đỡ giá chứng khoán (xin được nói thêm về điều này ở đoạn cuối của bài).

Chẳng hạn, dù ủy ban có thành công trong việc ổn định tâm lý và lòng tin của nhà đầu tư, nhưng nếu triển vọng lạm phát gia tăng, lãi suất tăng, tỷ giá giảm, khẩu vị của nhà đầu tư (nội, ngoại) thay đổi vì một số nhóm cổ phiếu đã/sẽ trở nên không còn hấp dẫn nữa (tương tự điều xảy ra với nhóm cổ phiếu công nghệ ở Mỹ)... thì sẽ không thể tránh được có nhiều cổ phiếu bị áp lực tiếp tục bán tháo.

Nói cách khác, thành công của việc ổn định giá chứng khoán phụ thuộc vào không chỉ ý chí quyết tâm của nhà quản lý. Nỗ lực này của họ chắc chắn sẽ chỉ thành công khi kiểm soát được lạm phát, lãi suất, tỷ giá không biến động đáng kể và thị trường chứng khoán trong nước hoàn toàn không liên thông với thị trường chứng khoán nước ngoài. Dễ thấy là tất cả các điều kiện cần này đều đang bị vi phạm và/hoặc ở mức độ rủi ro lớn. Ví dụ, lạm phát của Việt Nam không chỉ phụ thuộc các điều kiện trong nước mà còn các điều kiện không kiểm soát được ở nước ngoài.   

Nếu UBCK lại còn muốn chỉ số chứng khoán đảo chiều tăng lên thì đồng nghĩa với việc các điều kiện cần nêu trên càng phải ít rủi ro hơn nữa và, do đó, sự “ổn định” càng chỉ là ý chí chủ quan của nhà quản lý.

Nếu UBCK muốn ổn định thị trường ở góc độ ổn định tâm lý nhà đầu tư, cụ thể bằng biện pháp thông tin tuyên truyền, đây không phải là biện pháp tồi. Điều đáng nói là ủy ban tuyên truyền thế nào để nhà đầu tư đỡ sợ hãi hơn?

Sự tuyên truyền này không thể trái ngược với thực tế, chỉ toàn màu hồng mà không hề có gam màu tối. Xin hãy rút bài học kinh nghiệm để tránh lặp lại hành động tuyên truyền theo kiểu trước đây của một vị chức sắc, khi thị trường chứng khoán Việt Nam cũng lao dốc mạnh, rằng “nếu có tiền thì tôi cũng mua vào chứng khoán”.

Những căn cứ màu hồng cho công tác tuyên truyền, ví dụ như quyết tâm của các cơ quan hữu trách trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường chứng khoán lành mạnh... chưa thể là căn cứ bởi quyết tâm này lúc nào cũng vẫn ở đó, vẫn được tuyên bố dày đặc như thường lệ, và, quan trọng là, kết quả của nó (sự quyết tâm) vẫn (sẽ) chỉ là ở thời tương lai.

Minh họa cho khả năng can thiệp hạn hẹp của nhà quản lý vào xu hướng lao dốc của thị trường là việc UBCK trong thông điệp về quyết tâm ổn định thị trường nêu trên cũng chỉ có thể nêu rất mơ hồ rằng: “Chúng tôi đang dõi sát diễn biến tình hình kinh tế - chính trị, động thái chính sách của các nước trên thế giới, đánh giá tác động, ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam để kịp thời có các giải pháp phù hợp nhằm ổn định thị trường chứng khoán trong nước”.

Vấn đề đặt ra là thị trường đã trên đà lao dốc từ đầu tháng 4 rồi đó mà sao họ không “kịp thời” có các giải pháp phù hợp nào đi, sao vẫn còn mãi “dõi sát”...? Liệu họ có kịp thời cho ra đời cái giải pháp nào đáng gọi là giải pháp trước khi thị trường tự điều chỉnh, ổn định trở lại (ở mức thấp) không?  

Để bổ trợ cho lập luận về khả năng can thiệp hạn hẹp của nhà quản lý, mà tốt nhất là không can thiệp gì, xin được nêu về thái độ khá là khách quan và thậm chí là... “dửng dưng” của Bộ trưởng Ngân khố Mỹ Janet Yellen về các biến động mạnh hiện nay trên thị trường chứng khoán. Theo đó, “bà và các quan chức tài chính hàng đầu không ngạc nhiên khi chứng kiến thị trường biến động mạnh đến hết mùa hè do đại dịch và xung đột Nga – Ukraine có thể gia tăng sức ép lên kinh tế toàn cầu” (2). Ở ý này cũng có mấy yếu tố khách quan được nhắc đến là đại dịch và xung đột Nga – Ukraine như ngầm minh họa cho sự “bất lực” của chính quyền Mỹ đối với chính thị trường của họ.

Không muốn nói là đến nhà chức trách Mỹ còn không muốn, không thể can thiệp để thị trường của họ thôi biến động mạnh thì, trừ khi có phép lạ, xin đừng tuyên bố duy ý chí về thị trường chứng khoán Việt Nam. Tất nhiên, lại trừ khi, đó là việc phải làm (cho có).         

--------

(1) https://cafef.vn/thong-diep-nong-cua-lanh-dao-uy-ban-chung-khoan-nha-nuoc-giua-luc-thi-truong-chung-khoan-giong-bao-20220513082543109.chn

(2) https://cafef.vn/vi-sao-co-phieu-cong-nghe-rot-tham-20220513135423648.chn

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).