https://thesaigontimes.vn/bai-toan-kho-ty-gia/
Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất cơ bản thêm 0,5 điểm % đã làm tăng thêm sức hấp
dẫn của đô la Mỹ. Điều này cùng với áp lực lạm phát tăng cao trên toàn cầu từ
các đợt cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương trên thế giới trước đó
và sự hiện diện của các cú sốc cung và tắc nghẽn logistics đã buộc nhiều ngân
hàng trung ương phải siết lại chính sách tiền tệ của mình, vừa là để giảm áp lực
lạm phát, đồng thời cũng gián tiếp củng cố tỷ giá bản tệ.
Tuy nhiên, có một
số nước lại “lội ngược dòng” trào lưu này, tiếp tục duy trì, thậm chí là hạ lãi
suất cơ bản, chủ yếu bởi quan ngại về sự phục hồi kinh tế trong nước có thể bị ảnh
hưởng tiêu cực khi tỷ giá bản tệ so với đô la Mỹ mạnh lên. Điều này làm cho tỷ
giá bản tệ của một số nước trong khu vực như Nhật, Malaysia, Trung Quốc, suy yếu
đáng kể so với cuối năm trước (lần lượt là 13,49%, 4,72% và 4,61%; xem bảng),
trong khi bản tệ của một số nước khác trong khu vực chỉ mất giá ở mức độ khiêm
tốn hơn nhiều, mà điển hình là tiền đồng (VND chỉ giảm 1,02% như trong bảng).
Mức
độ mất giá của một số bản tệ ở châu Á |
|||
|
31/12/2021 |
5/8/2022 |
+/- |
CNY |
6,37257 |
6,66653 |
4,61% |
SGD |
1,35207 |
1,38543 |
2,47% |
IDR |
14.272,5 |
14.482,5 |
1,47% |
MYR |
4,17352 |
4,37055 |
4,72% |
JPY |
115,068 |
130,59 |
13,49% |
VND |
22.766,4 |
22.999 |
1,02% |
Nguồn:
xe.com |
Vì Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất vào Việt Nam nên sự mất giá mạnh của bản tệ của họ (CNY, 4,61%) so với tiền đồng (1,02%) rõ ràng đã và đang tạo ra lợi thế không nhỏ cho hàng hóa và dịch vụ của họ không chỉ trên thị trường trong nước của Việt Nam mà còn tại các thị trường quốc tế mà Việt Nam đang xuất khẩu sang, tất nhiên bao gồm cả thị trường Trung Quốc.
Trước thực tế
này, và như thường lệ, một số chuyên gia khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam
cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nhập khẩu sang/từ các nước ngoài Trung
Quốc để tránh bất lợi trong sức cạnh tranh đến từ tỷ giá.
Dĩ nhiên là nói dễ
hơn làm. Việc đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu đã được xúc tiến liên tục từ
nhiều năm nay, như được thể hiện một phần qua việc ký kết các hiệp định thương
mại song phương và đa phương của Việt Nam với các nước và khu vực kinh tế trên
thế giới, nhưng kết quả thì vẫn là sự... khẳng định vị trí và sức cạnh tranh
thương mại khó có thể lung lay của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Ngoài ra, cần lưu
ý rằng Trung Quốc cũng chính là một thành viên của RCEP, một hiệp định thương mại
đa phương mới được ký kết gần đây mà Việt Nam cũng là một thành viên. Bởi vậy,
công cụ đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam nhằm hóa giải sức cạnh
tranh tăng lên từ Trung Quốc trong bối cảnh tỷ giá CNY suy yếu mạnh hơn so với
tỷ giá VND thực sự đã trở nên không còn mấy ý nghĩa.
Trong bối cảnh
này, một giải pháp hiển nhiên khác cần và có thể nghĩ đến là Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) để VND suy yếu mạnh tương đương hoặc hơn so với mức suy yếu của CNY, qua
đó duy trì được cán cân sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam so
với Trung Quốc.
Cái khó của giải
pháp này là nó sẽ làm tăng áp lực lạm phát tại Việt Nam, vốn đang trên đà gia tăng mấy tháng gần đây.
Từ góc độ của NHNN,
với sứ mệnh ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát vẫn có thể là một ưu tiên
tại thời điểm hiện tại, bởi tăng trưởng kinh tế từ đầu năm đến nay vẫn đang tiếp
tục rõ nét, và bởi nền kinh tế thực không có mấy dấu hiệu thiếu tiền nếu căn cứ
vào sự sốt nóng của thị trường bất động sản (và thị trường chứng khoán, cho đến
khi có các vụ bắt bớ) – là biểu hiện của sự dư thừa cung tiền và khả năng hấp
thụ tín dụng có hạn của nền kinh tế thực.
Nhưng từ góc độ của
một số nhà làm chính sách, tăng trưởng kinh tế từ đầu năm tuy đã khởi sắc nhưng
chưa đủ để đảm bảo đạt được mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng đặt ra cho năm
nay (6-7%), đặc biệt là khi NHNN phải tăng lãi suất tiền đồng để chặn lạm phát.
Nên đối với những nhà làm chính sách này thì duy trì các biện pháp kích thích
tăng trưởng, trong đó có chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng, vẫn phải là ưu
tiên chính sách. Nói cách khác, họ không chấp nhận, không muốn đánh đổi mục
tiêu tăng trưởng lấy mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, ít nhất cho đến khi đà
tăng của GDP trong quý 2 và 3 đã được củng cố trong khi lạm phát bằng cách nào
đó, chủ yếu là biện pháp hành chính, chưa xuất hiện trên các báo cáo chính thức
ở mức độ “nguy hiểm”, có khả năng vượt xa mức mục tiêu 4% đặt ra.
Bởi các nhà làm
chính sách theo hướng ưu tiên tăng trưởng kinh tế là số đông, và quan trọng
hơn, có quyền chi phối định hướng chính sách của nền kinh tế nên rất có khả
năng NHNN buộc phải duy trì một chính sách tiền tệ trung dung. Bản thân NHNN chắc
cũng không muốn chứng kiến sự suy sụp của thị trường tài chính, bất động sản nếu
chính sách tiền tệ được thắt chặt mạnh và nhanh kể cả khi lạm phát đã ngấp nghé
ở mức cao.
Với khả năng trên, nếu đô la Mỹ tiếp tục mạnh lên và các đồng bản tệ khác tiếp tục suy yếu thì tiền đồng cũng sẽ chỉ được phá giá thêm ở mức độ rất khiêm tốn trong phần còn lại của năm nay so với đô la Mỹ.
No comments:
Post a Comment