Wednesday, 28 September 2022

'Nhiễu' chính sách (Bài đăng trên KTSG, 26/9/2022)

https://thesaigontimes.vn/nhieu-chinh-sach/

Kinh tế Việt Nam đã và đang trải qua những thăng trầm lớn trong mấy năm qua và hướng đến một trạng thái bình thường mới. Gánh trên vai nhiều trọng trách trong tâm thế chịu sức ép từ nhiều phía phải hành động theo các hướng thậm chí trái ngược, mâu thuẫn với nhau, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đến thời điểm này đã tạo dựng một thế cân bằng vĩ mô mới dựa trên sự thỏa hiệp ở mỗi nơi, mỗi lĩnh vực một ít.

Về lạm phát, tuy NHNN đã phần nào ngăn chặn được tình trạng lạm phát tăng vọt lên như ở nhiều nước trên thế giới nhưng lạm phát ở Việt Nam cũng không thể gọi là thấp được đến thời điểm hiện tại, và vẫn phải đối mặt với rủi ro lạm phát cao hơn trong những tháng cuối năm và sang đến năm sau.

Về lãi suất, chính sách tiền tệ “thận trọng, linh hoạt” của NHNN tuy đã hạn chế được đà tăng lãi suất mạnh như ở nhiều nước nhưng thực tế thì mặt bằng lãi suất đã tăng lên trở lại hoặc hơn trước thời điểm đại dịch. Các lãi suất điều hành chưa tăng nhưng điều này đơn giản là do NHNN chưa muốn công bố chính thức, trong khi trên thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường tái chiết khấu tín phiếu, lãi suất mà NHNN áp dụng với các ngân hàng thương mại trong các giao dịch liên quan đã tăng vọt.

Cũng tương tự vậy là về tỷ giá, tuy đã không tăng nhanh và mạnh như với các bản tệ khác đến hàng chục % nhưng tỷ giá USD/VND cũng đã tăng tới 3,9% so với cuối năm trước (số liệu từ xe.com) và không thể gọi là “ổn định” được. Tất nhiên, sự mất giá “có chừng mực” này của tiền đồng đã phải đi kèm với cái giá là lãi suất tiền đồng đã tăng lên như nói ở trên, còn quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia thì đã hao hụt mạnh hàng chục tỷ đô la trong các đợt can thiệp vào thị trường ngoại hối vừa qua của NHNN.

Nhìn chung, một cách công bằng và khách quan, chính sách và phản ứng của NHNN cho đến nay tuy không phải tối ưu nhưng là điều có thể chấp nhận được, đặc biệt khi chúng ta đặt mình vào vị trí khá “tế nhị” của NHNN với nhiều sức ép tứ phía. Trong Hội nghị về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng hôm 12/9, bất chấp vẫn có những gam mầu... không sáng như nêu trên, hoạt động điều hành của NHNN vẫn được đánh giá cao bởi Thủ tướng Chính phủ và nhiều chuyên gia trong và ngoài nước với những từ như “điều hành rất chắc tay”, “nghệ thuật điều hành”, “đang đi đúng hướng”...(1).

Tuy nhiên, cũng trong hội nghị trên có một số ý kiến và nhận định của một vài chuyên gia kỳ cựu không chỉ khác biệt mà còn, đáng nói hơn, tạo ra không ít “nhiễu” về đường hướng chính sách đến mức người nghe không biết phải hiểu và làm thế nào cho đúng.

Có vị chuyên gia lập luận rằng chắc chắn ngày 21/9 này Mỹ sẽ tiếp tục tăng lãi suất mà mục đích, suy cho cùng, là phục vụ cho việc tăng tỷ giá. Vì thế vị này cho rằng Việt Nam cần tiếp tục kiên định sự ổn định của tỷ giá, và nhấn mạnh rằng “Nếu không cho đồng Việt Nam tăng giá thì thôi chứ không để cho đồng Việt Nam giảm giá”.

Cái sai của vị chuyên gia này là mục đích tăng lãi suất của Mỹ. Nó hiển nhiên chỉ là để kiềm chế lạm phát tăng vọt ở nước này, chứ không phải là để tăng tỷ giá, bởi hầu như các đời Tổng thống Mỹ đều hiểu cái giá phải trả khi đô la Mỹ lên giá và thường áp đặt nhiều biện pháp trừng phạt các quốc gia đối tác thương mại lớn có đồng bản tệ bị mất giá một cách bất thường so với đô la Mỹ.

Cái sai nữa là cho rằng tiền đồng vẫn đang ổn định và cần tiếp tục kiên định sự ổn định này. Thực tế thì, như đã nói, tiền đồng tuy mất giá không mạnh như các bản tệ khác nhưng cũng đã yếu đi tới 3,9%, và ở mức độ này thì không thể nào gọi đó là sự ổn định được.

Đáng nói hơn cả là cái ý “không để tiền đồng tăng giá thì thôi chứ không để mất giá”. Chắc không mấy người hiểu được lý do tại sao phải để tiền đồng tăng giá mới là tốt, tối ưu, trừ khi người đó cũng quan niệm, một cách sai lầm, rằng bản tệ mạnh lên (tăng giá so với đô la Mỹ) mới là thể hiện sức mạnh kinh tế, tính cạnh tranh của quốc gia.

Tương tự, nếu coi việc để tiền đồng mất giá là một tai họa, một thất bại chính sách thì chẳng những vị chuyên gia này đang phủ nhận thành quả của NHNN về điều hành tỷ giá như được Thủ tướng và các chuyên gia tán dương, mà còn chính là cổ xúy cho việc “chơi tất tay” để bảo vệ tỷ giá đến đồng dự trữ ngoại tệ cuối cùng và/hoặc lãi suất cao đến mức thắt cổ, nếu cần, trong bối cảnh áp lực tỷ giá đang ngày càng tăng lên như hiện nay. Nếu không làm vậy thì có cách nào khác để kiên quyết bảo vệ tỷ giá, thưa chuyên gia?

Có vị chuyên gia khác trong hội nghị thì cho rằng "Bơm tiền hay không bơm tiền ra đều phải căn cứ vào nợ xấu. Không bơm tiền chưa chắc đã giảm nợ xấu. Nếu chúng ta bơm tiền ra đúng đối tượng, cho những doanh nghiệp tốt, dự án tốt thì vẫn xử lý giúp cho ngành ngân hàng trong điều kiện hiện nay".

Có thể nói đây cũng là một ý kiến rất... gây nhiễu, không chỉ vì nó đi ngược lại những hiểu biết thông thường về kinh tế học (về chuyện bơm tiền phải căn cứ vào nợ xấu), sai lầm về khái niệm (chỉ có ngân hàng trung ương mới có chức năng bơm tiền, chứ không phải là chính phủ, hay đầu tư công), mà còn làm cho người nghe bối rối với câu hỏi, rốt cục thì cần phải làm gì, thế nào mới là đúng?

Có lẽ rồi đây các hội nghị cần đi vào thực chất và hiệu quả bằng cách thanh lọc để hạn chế không chỉ các ý kiến chung chung, nói đâu cũng đúng nhưng không tạo ra chút giá trị thặng dư gì, và đặc biệt là những loại ý kiến vừa sai vừa làm rối thêm cho nhà điều hành.

----

(1)    https://cafef.vn/kien-dinh-dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-than-trong-linh-hoat-20220913153513831.chn

Monday, 26 September 2022

Để khắc phục ‘kiểm toán lỗi’ (Bài đăng trên KTSG, 26/9/2022)

https://thesaigontimes.vn/de-khac-phuc-kiem-toan-loi/

Không phải chỉ mới gần đây mới có hàng loạt vụ lùm xùm liên quan đến các doanh nghiệp được kiểm toán và các công ty kiểm toán của chúng. Nhiều năm trước đây cũng đã từng chứng kiến nhiều vụ việc tương tự. Tuy nhiên, vấn đề thường được phát hiện chậm, và cách xử lý thường mang tính hình thức, ít mang tính răn đe, thậm chí được bỏ trôi trong im lặng.   

Thiếu cạnh tranh

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các lỗi, các vấn đề tồn tại trong chất lượng kiểm toán doanh nghiệp là thiếu sự cạnh tranh.

Theo một số thống kê trong ngành, hiện Việt Nam có khoảng 210 doanh nghiệp kiểm toán với gần 14 ngàn nhân viên. Tuy nhiên, dẫn đầu trong danh sách này là nhóm “Big 4”, gồm E&Y, PWC, Deloitte và KPMG, với tổng doanh thu chiếm khoảng hơn một nửa và sử dụng gần 30% số nhân viên chuyên nghiệp toàn ngành. Big 4 cũng chiếm tỷ trọng chi phối về số lượng khách hàng, với mỗi doanh nghiệp nhóm này có hàng ngàn khách hàng, so với con số tối đa hai ba trăm trở xuống ở các doanh nghiệp kiểm toán khác.

Có một số lý do để Big 4 khuynh đảo thị trường kiểm toán thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, gồm uy tín và yêu cầu của nhà đầu tư/tổ chức liên đới thường có xu hướng đòi hỏi báo cáo tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn, phải được kiểm toán bởi Big 4.

Sự khuynh loát của Big 4 đã tạo ra một thị trường kiểm toán phân tầng rõ rệt, không chỉ về đối tượng, thị phần mà còn về chất lượng. Thiếu vắng cạnh tranh (đúng hơn là không thể cạnh tranh) đã buộc đa phần doanh nghiệp kiểm toán hoạt động trong phân khúc giá rẻ đi kèm với chất lượng thấp, dẫn đến nhiều bất cập theo một vòng xoáy đi xuống. Điều này được minh họa bởi kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán năm 2018 (8 doanh nghiệp), 2019 (10 doanh nghiệp) của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, chỉ có doanh nghiệp thuộc Big 4 mới được xếp hạng tốt (các doanh nghiệp còn lại chỉ ở mức “đạt yêu cầu”).

Để phá vỡ vòng luẩn quẩn kìm chân với các doanh nghiệp kiểm toán ngoài Big 4 vươn lên về mặt chất lượng hoạt động, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của ngành thì cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp kiểm toán ngoài Big 4 nắm bắt được phân khúc thị trường kiểm toán cao cấp hơn vốn hầu như thuộc độc quyền của Big 4. Các giải pháp khả thi gồm đấu thầu rộng rãi hợp đồng kiểm toán, và ban hành quy định luật cấm các hợp đồng kinh doanh, ví dụ vay vốn, có điều khoản buộc doanh nghiệp phải được kiểm toán bởi Big 4 như là một điều kiện để ký kết hợp đồng.  

Xung đột lợi ích

Đôi khi lợi ích của Ban giám đốc doanh nghiệp không trùng lặp với lợi ích của cổ đông (và các đối tác liên quan) và nghĩa vụ của kiểm toán. Nếu Ban giám đốc chi phối được kiểm toán thì kiểm toán sẽ có xu hướng thiên lệch. Sự chi phối này có thể đạt được bằng mấy cách như không thuê/tái thuê công ty kiểm toán, chấm dứt hoặc không trao hợp đồng kinh doanh trong các lĩnh vực khác ngoài kiểm toán với công ty kiểm toán, gây khó khăn và tốn kém cho công ty kiểm toán trong quá trình kiểm toán...

Đối với doanh nghiệp kiểm toán, nguồn thu nhập chính lẽ ra phải là từ kiểm toán doanh nghiệp. Nhưng thật bất ngờ là con số này lại rất khiêm tốn đối  với nhiều công ty kiểm toán. Ngay trong Big 4, trừ E&Y với gần 75% doanh thu từ kiểm toán, ba doanh nghiệp còn lại chỉ có từ 45% (Deloitte) đến chưa đầy 5% (PWC) doanh thu là từ hoạt động kiểm toán trong năm 2021. Thực tế này cho thấy hoạt động kiểm toán gần như là hoạt động... “tay trái” của doanh nghiệp kiểm toán, và đây cũng là nguồn chính gây ra các vấn đề về xung đột lợi ích trong hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán.

Để khắc phục xung đột lợi ích, cần thiết phải siết chặt phạm vi và cấp độ dịch vụ mà doanh nghiệp kiểm toán được phép cung cấp cho khách hàng. Chẳng hạn, Anh hồi năm 2016 đã ban hành luật giới hạn tỷ lệ phí phi kiểm toán ở mức 70% của phí kiểm toán thu được trong vòng 3 năm trước đó. Luật cũng cấm doanh nghiệp kiểm toán cung cấp một số dịch vụ đồng thời cho khách hàng được kiểm toán, gồm dịch vụ thuế, chuẩn bị báo cáo tài chính, định giá và một số dịch vụ pháp lý...

Đối với doanh nghiệp kiểm toán chỉ có hoạt động kiểm toán hoặc bị cấm cung cấp dịch vụ khác cho doanh nghiệp được kiểm toán, để hạn chế khả năng Ban giám đốc doanh nghiệp được kiểm toán đe dọa không ký hoặc tái ký hợp đồng kiểm toán cần cân nhắc các giải pháp như chỉ định công ty kiểm toán bởi một bên thứ ba độc lập, như Sở Giao dịch hoặc cơ quan chức năng. Hoặc công ty kiểm toán được chỉ định theo hợp đồng có kỳ hạn 5-7 năm để không phải lo ngại bị gạt ra nếu làm trái ý doanh nghiệp.

Đối với các hành động gây khó dễ cho kiểm toán từ phía doanh nghiệp, cần quy định kiểm toán phải báo cáo kịp thời với cơ quan chức năng về các vấn đề mà họ đối mặt, gồm, ví dụ, phải làm thêm việc mà doanh nghiệp từ chối chi trả, hay kịp thời can thiệp của cơ quan chức năng khi thấy có rủi ro về chất lượng kiểm toán phát sinh từ vấn đề này.

Bất cập giám sát

Quy định tăng cường cạnh tranh và giảm xung đột lợi ích không thôi là chưa đủ để nâng cấp chất lượng kiểm toán. Ngành kiểm toán phụ thuộc lớn vào việc giám sát thực hiện.

Cụ thể hơn, tăng cường cạnh tranh đôi khi dẫn đến kết quả ngược lại bởi giảm chất lượng nhiều khi là cách đơn giản nhất để giảm áp lực từ cạnh tranh (tương tự như người bán nhỏ phải bí mật hạ chất lượng nhằm hạ giá sản phẩm để cạnh tranh được về giá với người bán lớn).

Vai trò của cơ quan chức năng ở đây là phải tăng cường giám sát để kịp thời phát hiện và trừng phạt mạnh, mang tính răn đe cao, các hành vi vi phạm, sai sót của doanh nghiệp kiểm toán hướng đến mục tiêu cải thiện chất lượng kiểm toán một cách bền vững.

Tuy nhiên, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy cơ quan chức năng còn yếu kém hoặc lơ là, thiếu trách nhiệm trong việc giám sát và kịp thời phát hiện sai phạm, hoặc nương tay với các sai phạm của doanh nghiệp và nhân viên kiểm toán. Các mức phạt hiện tại cũng còn chưa đủ mạnh để mang tính răn đe, ngăn ngừa các hành vi phạm pháp trong ngành.

Xu hướng trên thế giới trong vấn đề giám sát là xem xét thành lập một cơ quan chuyên trách về kiểm toán có sứ mệnh rõ ràng hơn, tập trung vào quyền lợi của người sử dụng thông tin tài chính chứ không phải là người lập ra/cung cấp thông tin, được tôn trọng bởi những người phụ thuộc vào công việc của cơ quan này và gây sợ hãi, nếu cần, cho những ai bị cơ quan này giám sát, có quyền lực thích hợp và đủ nguồn lực để thực thi nhiệm vụ, và có khả năng thu hút nhân lực giỏi nhất. 

Wednesday, 21 September 2022

‘Cái giá’ của ổn định tỷ giá (Bài đăng trên KTSG, 20/9/2022)

https://thesaigontimes.vn/cai-gia-cua-on-dinh-ty-gia/

Tỷ giá USD/VND là một vấn đề “nhạy cảm” ở Việt Nam. Những giai đoạn tỷ giá căng thẳng theo hướng tiền đồng suy yếu so với đô la Mỹ, mọi sự tập trung, của dư luận và của chính sách, đều dồn vào khía cạnh liệu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có “ổn định” được tỷ giá – tức giữ tỷ giá không tăng mạnh – hay không.

Lý do được viện dẫn để kêu gọi, ủng hộ nỗ lực ổn định tỷ giá chủ yếu là lợi ích trước mắt của chúng, gồm ngăn không cho nợ quốc gia, đặc biệt là nợ công, tăng lên, cũng như giảm thiểu nhập khẩu lạm phát. Bên cạnh đó, tác động tích cực của tỷ giá tăng (tiền đồng mất giá) lên cán cân xuất nhập khẩu bị coi nhẹ, thậm chí hiểu sai.

Tiền chạy từ túi này sang túi kia

Về tác động của tỷ giá lên nợ nói chung và nợ công nói riêng, đúng là các con nợ có vay mượn bằng ngoại tệ, bất kể đó là Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân hoặc cá nhân, đều được hưởng lợi nếu tỷ giá không tăng lên (tiền đồng không mất giá). Tuy nhiên, cái giá phải trả cho sự ổn định này thì hầu như không được biết đến hoặc được ai quan tâm.

Không phải tự nhiên mà NHNN có thể giữ ổn định được tỷ giá. Công cụ ổn định tỷ giá, mang tính kinh tế, mà NHNN có thể thực hiện là bán đô la can thiệp, và/hoặc giảm bớt lượng tiền đồng lưu thông trong nền kinh tế.

Với kênh bán đô la can thiệp, cái giá nhãn tiền là quỹ dự trữ ngoại hối đã hao hụt trên chục tỷ đô la chỉ trong mấy tháng qua và con số bán ra can thiệp là rất đáng kể so với giá trị quỹ dự trữ ngoại hối chừng trên 100 tỷ đô la, một con số khá khiêm tốn, nằm không quá xa ngưỡng an toàn tối thiểu so với kim ngạch nhập khẩu quốc gia.

Với kênh hút tiền đồng về, cái giá phải trả là mặt bằng lãi suất (tiền đồng) tăng lên, đẩy các ngân hàng vào cuộc đua lãi suất không hồi kết nếu nền kinh tế tiếp tục mở rộng.

Cả hai kênh nói trên tuy giữ được tỷ giá ổn định ở một mức độ nào đó, và là điều có lợi cho các con nợ bằng ngoại tệ, nhưng lại gây phương hại cho nhà nước khi quỹ dự trữ ngoại hối bị hao hụt mạnh, ảnh hưởng đến an toàn tài chính quốc gia. Nó cũng gây phương hại cho toàn bộ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế khi lãi suất tăng cao dẫn đến chi phí vay mượn bằng tiền đồng tăng mạnh, làm giảm doanh thu và lợi nhuận.

Nói cách khác, ổn định tỷ giá thực chất là lấy tiền của cộng đồng để trợ cấp cho một nhóm nhỏ đối tượng. Điều phi lý này phần nào có thể được chấp nhận nếu nợ quốc gia bằng ngoại tệ chủ yếu là nợ công, hoặc ở mức độ kém thuyết phục hơn, nợ của doanh nghiệp nhà nước (dẫu sao cũng có chữ “nhà nước”). Nhưng vì điều này là không đúng nên rốt cuộc nó có nghĩa là tiền đang được chuyển từ túi công cộng sang túi của thậm chí cả tư nhân (lưu ý rằng nhiều doanh nghiệp nhà nước chỉ có một phần vốn nhà nước).

Nhập khẩu lạm phát nhiều khi chỉ là con ngoáo ộp

Nhập khẩu lạm phát là một lý do chủ yếu khác của bên ủng hộ ổn định tỷ giá. Thực tế thì trong nhiều giai đoạn tỷ giá tăng mạnh, lạm phát không vì thế mà bột phát, và ngược lại. Điều quan trọng là chính sách tiền tệ của NHNN được điều hành theo xu hướng nào, và nó mới là động lực chính quyết định xu hướng của lạm phát sẽ đi về đâu.

Hiện tại, trong bối cảnh lạm phát cao đang lan tràn ở nhiều nước trên thế giới, đi kèm với sự sụt giá của nội tệ của họ, không có mấy nước chống lạm phát bằng cách bán ngoại tệ để “ổn định” tỷ giá bản tệ nhằm hạ lạm phát trong nước. Thay vào đó, trào lưu chung chỉ là thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách nâng lãi suất cho vay từ các ngân hàng trung ương. NHNN thực chất cũng đang đi theo xu hướng này thông qua nâng mạnh lãi suất cho vay trên thị trường mở và lãi suất tín phiếu ngân hàng, cho dù cố tránh một động thái chính thức là công bố các mức lãi suất điều hành mới.

Tác động tích cực của tỷ giá tăng lên xuất khẩu vẫn bị hiểu sai... kinh niên!

Có một điều rất lạ là tác động kích thích xuất khẩu của đồng bản tệ yếu vẫn luôn bị hiểu sai, cho dù dư luận đã tốn rất nhiều giấy mực. Vẫn có nhiều chuyên gia, học giả cho rằng doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải nhập nguyên vật liệu bằng đô la nên dù được lợi về giá xuất khẩu (quy ra tiền đồng) thì lại bị thiệt về chi phí (cũng quy ra tiền đồng). Có vị chuyên gia còn “chi ly” hơn khi cho rằng doanh nghiệp vẫn phải sử dụng các dịch vụ bằng đô la như vận tải viễn dương, bảo hiểm... nên các chi phí loại này cũng tăng lên.

Xin nhắc nhở rằng chừng nào trong cấu phần chi phí của một sản phẩm nào đó sản xuất tại Việt Nam, được xuất đi thị trường thế giới theo giá đô la, có dù chỉ 1% là chi phí cho nguồn lực sử dụng tại Việt Nam, bằng tiền đồng, và chừng nào giá bán sản phẩm này bằng đô la không thay đổi tại thị trường nó được xuất khẩu đi thì chừng đó doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn được lợi khi tiền đồng mất giá, bởi: Doanh thu (không đổi, nếu tính bằng đô la) – Chi phí (không đổi, nếu tính bằng đô la) = Lợi nhuận (lớn hơn, nếu tính bằng đô la sau phá giá bản tệ, và sẽ lớn hơn nữa, nếu tính bằng tiền đồng).

Bằng số, giả sử trong một cái áo sơ mi xuất khẩu có giá bán 100 đô la, chi phí các loại là 98 đô la và 10.000 tiền đồng. Lợi nhuận tại tỷ giá USD/VND=20.000 là 100 – 98 – 10.000/20.000 = 1,5 đô la (hoặc 30.000 đồng). Khi tỷ giá tăng lên 22.000, lợi nhuận mới sẽ là 100 – 98 – 10.000/22.000 = 1,545 đô la (hoặc 34.000 đồng), tức tăng lên gần 0,05 đô la (hay 4.000 đồng cao hơn) so với trước khi tiền đồng mất giá.

Lưu ý trong ví dụ trên là giá bán và chi phí bằng đô la là không thay đổi và thường là điều phù hợp trên thực tế tại thời điểm trước và sau phá giá bản tệ, chứ không có chuyện chi phí (giá thành) lại tăng lên như nhiều người diễn giải. Chi phí/giá thành có tăng lên chỉ là khi tính theo tiền đồng mà thôi.

Monday, 19 September 2022

Lừa đảo tài chính: các ngân hàng không vô can (Bài đăng trên KTSG, 19/9/2022)

https://thesaigontimes.vn/lua-dao-tai-chinh-cac-ngan-hang-khong-vo-can/

Mấy năm gần đây nở rộ các vụ lừa đảo tài chính, theo mô típ kẻ gian mạo danh cơ quan chức năng gọi điện đến bị hại dọa nạt và yêu cầu bị hại chứng minh tiền trong tài khoản của bị hại là tiền “sạch”, hợp pháp bằng cách chuyển tiền có trong tài khoản ngân hàng vào tài khoản do “cơ quan chức năng” chỉ định để rồi... mất hút.

Một trong các điểm chung của kiểu lừa đảo này là tài khoản ngân hàng mà kẻ gian “chỉ định” bị hại chuyển tiền vào là tài khoản hoặc không chính chủ, hoặc được mở dựa trên thông tin giả mạo (lấy từ chứng minh, căn cước công dân giả).

Một điểm chung khác nữa là mặc dù số tiền mà bị hại bị kẻ gian yêu cầu chuyển đi nhiều khi rất lớn, hàng tỷ đồng, nhưng ít khi bị (nhân viên) ngân hàng nghi ngờ, tìm cách xác thực mục đích để ngăn chặn lừa đảo.

Và điểm chung thứ ba, đúng hơn thì là quan sát riêng của người viết đối với những người quen biết xung quanh đã và “suýt nữa” thì trở thành bị hại của bọn lừa đảo, là bọn lừa đảo chỉ toàn “vô  tình” nhắm trúng các đối tượng có nhiều tiền trong tài khoản ngân hàng.

Các điểm chung nêu trên dẫn đến một kết luận có cơ sở là một trong những nguyên nhân làm nở rộ các vụ lừa đảo kiểu chuyển tiền chứng minh nguồn gốc này là từ chính các ngân hàng, và cần phải làm điều gì đó để ngân hàng không vô can, phải có trách nhiệm với hoạt động của mình để không làm phương hại đến quyền lợi của khách hàng.

Cụ thể hơn, với các gian lận liên quan đến tài khoản nói trên, nếu làm đúng và làm tốt thì (nhân viên) ngân hàng sẽ giảm thiểu được nguy cơ lừa đảo từ kênh này.

Để so sánh, xin lấy ví dụ về ngân hàng ở Singapore. Khi đi mở tài khoản, các thủ tục mở cũng không khác biệt mấy hoặc phức tạp hơn so với của Việt Nam. Tuy nhiên, một điểm khác biệt đáng kể là giấy tờ chứng minh nhân thân, ví dụ như thẻ căn cước, của Singapore rất đặc trưng, khó làm giả. Từ đó, nếu nhân viên ngân hàng làm đúng và tốt bổn phận của mình thì hoàn toàn có thể loại trừ ngay được khả năng lừa đảo dựa trên giả mạo giấy tờ tùy thân. Bản thân bọn tội phạm chắc chắn cũng không dám mạo hiểm sử dụng giấy tờ tùy thân giả để mở tài khoản tại Singapore bởi khả năng bị phát hiện giả mạo là rất cao.

Trong khi đó, ở Việt Nam, không ít trường hợp lừa đảo trót lọt là sử dụng tài khoản mở từ giấy tờ tùy thân (chứng minh nhân dân, thẻ căn cước...) giả mà bọn tội phạm đặt mua trên mạng, với thông tin tất nhiên là hoàn toàn giả mạo.

Lỗi trong trường hợp này trước hết không thể phủ nhận có phần của việc giấy tờ tùy thân ở Việt Nam dễ làm giả, với cái giá rất rẻ, rao bán công khai trên mạng (nên càng khẳng định được là chúng dễ... bị làm giả!). Không biết có phải vậy mà chính quyền đang ráo riết triển khai cấp căn cước công dân gắn chip hay không.

Tuy nhiên, điều này không thể là biện minh cho việc (nhân viên) ngân hàng không phát hiện được giấy tờ tùy thân này là giả mạo. Bởi cũng đã có không ít trường hợp (nhân viên) ngân hàng phát hiện tại chỗ hoặc sau đó rằng kẻ gian đã sử dụng giấy tờ giả mạo, như vẫn được phản ánh qua báo chí.

Như vậy, có thể khẳng định sự non kém, thiếu trách nhiệm, hoặc thậm chí cả sự thông đồng của nhân viên ngân hàng, cũng như quy trình kiểm tra, giám sát rủi ro bất cập của ngân hàng liên quan đến mở và duy trì tài khoản ngân hàng của khách hàng là một trong những nguồn cơn của nạn lừa đảo tài chính.

Quay trở lại với ví dụ về Singapore. Người viết từng đôi lần ra ngân hàng để cập nhật chi tiết mới về nhân thân của mình, sử dụng thẻ căn cước cấp mới, khác loại với thẻ cũ. Nhân viên ngân hàng sau khi yêu cầu người viết bỏ khẩu trang (thời đó Covid đang hoành hành, các nơi công quyền khác thường không yêu cầu công dân bỏ khẩu trang) và lật đi lật lại thẻ căn cước, “soi” chán chê mặt thật với trên ảnh thì chuyển sang so sánh chữ kỹ tươi và chữ ký lưu trong hệ thống, yêu cầu người viết ký lại sao cho giống như lưu mới thôi. Chưa hết, “tự nhiên” có một nhân viên khác, trông như quản lý, bước đến và soi một lần nữa mặt thật với trên ảnh cũng như bản thân cái thẻ căn cước. Quả là khó mà giả mạo để qua được quy trình kiểm tra “bốn mắt” này, trừ khi cả hai nhân viên này đều có... vấn đề!     

Lỗi và sự thiếu trách nhiệm của ngân hàng và nhân viên của họ ở còn được thể hiện sự yếu kém, thiếu trách nhiệm và/hoặc bất cập trong quy trình giám sát rủi ro, phòng chống rửa tiền, gian lận thương mại của ngân hàng. Bằng chứng là nhiều bị hại đã thực hiện chuyển tiền tại quầy “trót lọt” hàng tỷ đồng mà không bị nhân viên nghiệp vụ nghi ngờ, phát hiện và ngăn chặn.

Kể cả bị hại thực hiện chuyển tiền qua mạng, việc chuyển thành công một số tiền lớn một cách tức khắc, dễ dàng cũng cho thấy những yếu kém và tồn tại của ngân hàng liên đới. 

Lại nói về kinh nghiệm của người viết với ngân hàng ở Singapore. Có đôi lần người viết thực hiện chuyển tiền giao dịch, với giá trị tương đương khoảng hơn 2 tỷ đồng, tại ngân hàng. Thế mà tại quầy giao dịch, người viết cũng phải đối mặt với một nhân viên giao dịch và người quản lý ngân hàng, phải trình bày lý do chuyển tiền kèm theo bằng chứng tại sao phải cần chuyển tiền, dù người thụ hưởng là một ngân hàng khác với tài khoản ở Singapore.

Đối với việc chuyển tiền qua mạng ở Singapore, số tiền tối đa có thể chuyển được (trong một ngày) bị khống chế. Và để thay đổi hạn mức chuyển từ mức mặc định sang mức cao hơn (nhưng vẫn phải không cao hơn hạn mức tối đa trong ngày) thì thường phải được ngân hàng duyệt sau ít nhất 12 giờ kể từ khi yêu cầu thay đổi hạn mức.

Về sự “thính nhạy” của bọn lừa đảo khi nhắm rất trúng các đối tượng có nhiều tiền trong tài khoản, khó mà bỏ qua được khả năng có “tay trong” từ ngân hàng. Và đây là một kênh để truy tìm dấu vết bọn tội phạm, nếu nhà chức trách để mắt đến việc quản lý, kiểm soát thông tin về tài khoản và khách hàng (bị hại) từ phía ngân hàng, nơi bị hại mở tài khoản và gửi tiền.

Tuy nhiên, việc điều tra sẽ trở nên khó khăn hơn, và ngân hàng cũng có cớ để biện minh sự vô can, bởi hiện nay ngân hàng không còn là nơi độc quyền quản lý và kiểm soát thông tin tài khoản và khách hàng gửi tiền nữa. Chẳng hạn, theo luật, ngân hàng phải cung cấp thông tin liên quan cho cơ quan thuế. Do đó, cũng khó mà phủ định 100% rằng sẽ không có chuyện thất thoát thông tin khi có nhiều hơn một bên được quyền tiếp cận thông tin khách hàng.

Dẫu vậy, việc cần làm là vẫn phải truy dấu vết rò rỉ thông tin từ các bên liên đới, đặc biệt là ngân hàng, nhất là trong trường hợp thông tin khách hàng không/chưa bị chia sẻ với cơ quan chức năng.

Sunday, 11 September 2022

Room tín dụng có ngăn được cuộc đua lãi suất? (Bài đăng trên KTSG, 9/9/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/room-tin-dung-co-ngan-duoc-cuoc-dua-lai-suat/

Room tín dụng có ngăn được cuộc đua lãi suất?

Một trong những vấn đề lấn cấn liên quan đến duy trì hay bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng, thường được biết đến là “room” tín dụng, là tác động của nó đến lãi suất. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và giới chuyên gia vẫn cho rằng việc duy trì room tín dụng sẽ ngăn chặn chạy đua lãi suất (huy động) giữa các ngân hàng thương mại, từ đó kiềm chế được lạm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô, nên tiếp tục duy trì room tín dụng là điều cần thiết (1).

“Không cô thì chợ vẫn đông”

Theo cách hiểu của phía ủng hộ duy trì room tín dụng, sự tồn tại của room tín dụng buộc các ngân hàng chỉ được huy động vốn trong hạn mức mà NHNN cho phép. Nếu hết hoặc vượt quá room thì ngân hàng phải dừng huy động, tức sẽ không còn có thể tác động đến (đẩy lên cao) mặt bằng lãi suất huy động nữa.     

Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay đã chứng kiến một xu hướng rõ ràng về tăng lãi suất huy động ở hầu hết các ngân hàng thương mại, đẩy mặt bằng lãi suất huy động liên tục lên cao hơn qua các tháng. Cho dù có thể ai đó vẫn ngần ngại gọi đây là một cuộc chạy đua lãi suất thì vẫn cần nhận thấy rằng xu hướng đẩy cao lãi suất huy động hiện nay diễn ra trong bối cảnh nhiều ngân hàng thương mại đã sử dụng hết hoặc gần hết, thậm chí là vượt room tín dụng được NHNN cấp cho họ từ đầu năm.

Mà không chỉ có năm nay. Cuộc đua lãi suất hay một cái gì đó tương tự hầu như là một câu chuyện trường kỳ, thường xuyên diễn ra trong hàng chục năm qua, kể cả khi room tín dụng được chính thức áp dụng, và kể cả khi đa số ngân hàng đã chạm trần room tín dụng (2) (3) (4).

Cho nên, nếu nói là nhờ có room tín dụng mà các ngân hàng không (thể) chạy đua tăng lãi suất được thì rõ ràng đây chỉ là sự nói lấy được, không đúng với thực tế. Nói cách khác, room tín dụng không ngăn chặn được sự hình thành và tăng nhiệt của các cuộc đua lãi suất, là điều sẽ được giải thích thêm ở phần sau.

Cũng cần biết thêm rằng, đối mặt với các cuộc đua lãi suất này, thường NHNN phải nhượng bộ, làm dịu thị trường bằng cách tung ra thêm thanh khoản (bơm thêm tiền) và/hoặc nới room tín dụng. Lý do thường là áp lực của thị trường, của Chính phủ, cũng như nỗi lo về sức khỏe của hệ thống ngân hàng trong các cuộc đua lãi suất. Điều này càng làm cho mục đích tồn tại của room tín dụng, như được biện minh, trở nên nhạt nhòa, vô căn cứ.

Tại sao room tín dụng vô dụng?

Lý do đầu tiên làm cho room tín dụng không ngăn được các cuộc đua lãi suất nằm ngay chính ở việc vi phạm room mà không bị xử lý. Chẳng hạn, Vietcombank được NHNN tạm cấp hạn mức 10% nhưng mức tăng trưởng cho vay tính đến hết tháng 6 của ngân hàng này đã vượt xa hạn mức này, đạt 14,4% (5). Dù thế, ngân hàng này vẫn tham gia cuộc đua lãi suất cùng với các ngân hàng khác như không hề có điều gì (sẽ) xảy ra. Và cũng như thường lệ, chưa thấy NHNN công bố hay có kế hoạch áp đặt chế tài gì đối với những vi phạm kiểu này. Hậu quả tiếp theo như thế nào (lên tính chính danh của room tín dụng) thì chắc cũng không cần phải nói/tiên đoán.       

Tiếp đó, như đã nói, thường thì NHNN sẽ chạy theo thị trường khi có lãi suất nóng lên đến mức căng thẳng, bằng cách bơm thanh khoản và/hoặc nới room tín dụng. Rủi ro đạo đức kiểu này, kết hợp với việc NHNN “bỏ qua” các vi phạm như nói trên, đương nhiên tạo ra vòng xoáy tiêu cực – các ngân hàng mặc sức chạy đua huy động vốn nếu cần mà không lo bị xử lý và rồi thế nào thì NHNN sẽ “vào cuộc” để hỗ trợ hệ thống nói chung và từng ngân hàng nói riêng.

Lý do khác nữa là cho dù ngân hàng đã tiệm cận room tín dụng, không cho vay mới được nữa (và giả sử NHNN rất nghiêm khắc với việc tuân thủ room tín dụng) thì ngân hàng vẫn không thể ngừng hoàn toàn huy động và duy trì vốn huy động để đáp ứng được một số yêu cầu hoạt động cơ bản, nên vẫn phải đảm bảo một lãi suất huy động đủ hấp dẫn để thu hút, giữ chân khách gửi tiền, tức là sẽ không thoát khỏi cuộc đua tăng lãi suất. Và xin nhấn mạnh rằng, tham gia cuộc đua lãi suất kiểu này hoàn toàn là hợp pháp, bất kể có room tín dụng hay không.   

Đối với các ngân hàng vẫn còn room tín dụng, nhất là các ngân hàng nhỏ, yếu, họ luôn trong tình thế phải tăng lãi suất huy động để cạnh tranh được với những ngân hàng lớn, mạnh hơn. Trong những bối cảnh mà tín dụng/thanh khoản căng thẳng, như được thể hiện qua việc nhiều ngân hàng đã tăng trưởng mạnh đến mức cạn room tín dụng, thì việc tăng lãi suất của các ngân hàng dù là nhỏ (và hoàn toàn hợp pháp) cũng sẽ châm ngòi cho cuộc đua lãi suất, lôi kéo theo các ngân hàng lớn nhập cuộc dù chỉ để bảo vệ thị phần.

Cuối cùng, room tín dụng được xác định một cách khá định tính, và quan trọng hơn, không được luật hóa (một cách minh bạch, rõ ràng, nhất quán), nên không thể tránh khỏi sẽ có sự mâu thuẫn với các chỉ tiêu hoạt động an toàn mà chính NHNN ban hành, được luật hóa khác. Giả sử ngân hàng vẫn còn dư địa cho vay nếu căn cứ vào, chẳng hạn, chỉ tiêu về vốn tối thiểu nhưng lại bị trói tay bởi hạn mức tín dụng mà vì một lý do nào đó được cấp rất hạn hẹp dẫn đến ngân hàng không còn room để cho vay nữa. Lúc đó, sẽ là phi lý, phạm luật nếu khăng khăng áp dụng room tín dụng để buộc ngân hàng không được cho vay mới nữa, (hy vọng) họ không chạy đua tăng lãi suất huy động.

Phải chăng cũng chính vì vấn đề danh không chính ngôn không thuận này mà NHNN chưa/không thể làm căng chuyện vi phạm room tín dụng?

Tóm lại, room tín dụng không thể ngăn được chạy đua lãi suất trên cả lý thuyết lẫn thực tế. Có hay không room tín dụng thì ngân hàng vẫn có nhu cầu tự thân và được phép chạy đua lãi suất một cách hợp pháp khi cần.   

------

(1)    https://cafef.vn/nen-siet-hay-noi-room-tin-dung-20220830111351979rf2022090318325503.chn

(2)    https://tuoitre.vn/nhieu-ngan-hang-lai-chay-dua-lai-suat-20190829230411522.htm

(3)    https://baodautu.vn/ngan-hang-chay-dua-thanh-khoan-cuoi-nam-d158104.html

(4)    https://baodauthau.vn/chay-dua-lai-suat-bao-gio-thi-dung-post10804.html

https://zingnews.vn/nhieu-ngan-hang-da-can-room-tin-dung-post1341596.html

Friday, 9 September 2022

Lý do khác khiến tỷ lệ nợ công trên GDP giảm (Bài đăng trên KTSG, 9/9/2022)

https://thesaigontimes.vn/ly-do-khac-khien-ty-le-no-cong-tren-gdp-giam/

Bài viết Một góc nhìn khác về tình hình nợ công, trong số báo 34, ra ngày 25-8-2022(*), đã cho thấy tỷ lệ nợ công trên GDP trong giai đoạn 2017-2021, nếu tính đúng bằng cách sử dụng GDP danh nghĩa đã được Tổng cục Thống kê điều chỉnh cho cả giai đoạn này, chứ không phải chỉ riêng cho năm 2021 như cách tính của Bộ Tài chính, thì thực ra chỉ cải thiện nhẹ, giảm từ 41,1% năm 2017 xuống còn 38,7% năm 2021.

Hai nguyên nhân sơ bộ của sự cải thiện này được chỉ ra là GDP danh nghĩa (đã được điều chỉnh) tiếp tục tăng nhanh hơn tốc độ tăng nợ công, và sự chững lại của nợ nước ngoài (duy trì quanh mức 46 tỉ đô la Mỹ).

Bài viết này sẽ chỉ ra thêm nguyên nhân khách quan góp phần đáng kể kéo giảm tỷ lệ nợ công trên GDP trong các năm qua để cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục cẩn trọng với việc vay nợ mới khi các nguyên nhân khách quan này không còn góp mặt trong thời gian tới nữa.

Lãi suất trúng thầu trái phiếu chính phủ đã giảm mạnh

Một trong những nguyên nhân khách quan quan trọng khác làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP là lãi suất trái phiếu chính phủ đã giảm mạnh trong giai đoạn 2017-2021 (và còn giảm mạnh hơn thế nữa nếu kéo dài giai đoạn so sánh ra đến tận các năm cuối thập kỷ 2000 và đầu thập kỷ 2010, như biểu đồ).

Như có thể thấy trong biểu đồ, lãi suất trái phiếu chính phủ đã giảm mạnh từ mức 6,05% năm 2017 (hoặc ở mức đỉnh 11,97% năm 2011) xuống còn 2,01% vào tháng 9-2021.

Để dễ hình dung tác động của việc giảm lãi suất lên gánh nặng nợ công, hãy giả sử toàn bộ nợ công trong cùng giai đoạn, với giá trị tuyệt đối là 2,587 triệu tỉ đồng năm 2017 và 3,283 triệu tỉ đồng năm 2021, theo số liệu của Bộ Tài chính, là dư nợ ròng cuối năm sau khi đã trả tiền lãi phát sinh trong kỳ, có lãi suất huy động như trong biểu đồ. Trên cơ sở giả định này, tiền lãi phải trả cho dư nợ công trong năm 2017 và 2021 lần lượt là 167.000 tỉ đồng (=6,05%*2.587/(100%-6,05%)) và 67.000 tỉ đồng (=2,01%*3.283/(100%-2,01%)).

Giả sử thêm một bước nữa là lãi suất huy động trái phiếu chính phủ năm 2021 vẫn là 6,05% như của năm 2017 thì tiền lãi phải trả cho dư nợ công năm 2021 sẽ là 211.000 tỉ đồng, thay vì 67.000 tỉ đồng như nói ở trên. Tức là, do lãi suất đã giảm mạnh nên số tiền lãi tiết kiệm được sẽ là 144.000 tỉ đồng.

GDP danh nghĩa sau điều chỉnh năm 2021 là 8,480 triệu tỉ đồng. Như vậy, mức tiết kiệm tiền trả lãi từ việc lãi suất đã giảm mạnh sẽ tương đương với 1,7% GDP năm 2021 (= 144/8.480). Nếu cộng ngược con số 1,7% của việc tiết kiệm tiền trả lãi này vào tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2021 là 38,7% thì tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2021 theo giả định sẽ là 40,4%, không còn chênh lệch nhiều so với tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2017 là 41,1%.

Nói cách khác, dù không cần làm gì thêm thì chỉ riêng sự sụt giảm lãi suất huy động đã giúp giảm đáng kể tỷ lệ nợ công trên GDP trong giai đoạn 2017-2021. Điều đáng nói là sự sụt giảm lãi suất này là một yếu tố khách quan, đến từ sự sụt giảm mặt bằng lãi suất các ngoại tệ mà Việt Nam vay mượn trên thị trường tài chính quốc tế, cũng như (hoặc kéo theo) sự sụt giảm lãi suất trong nước.

Do đó, như đã nói ở đầu bài, sự cải thiện nợ công giai đoạn 2017-2021 có một phần đáng kể là do các nguyên nhân khách quan, cụ thể ở đây là gồm lãi suất huy động đã giảm mạnh.

Cơ cấu nợ đã được kéo dài

Đây chính là một nguyên nhân khách quan đáng kể khác (chính xác ra thì là một giải pháp mang tính kỹ thuật) giúp giảm tỷ lệ nợ công trên GDP. Tra cứu thông tin về kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ trong cùng giai đoạn sẽ rút ra được một thực tế là kỳ hạn phát hành bình quân đã hầu như liên tục được kéo dài thêm trong các năm sau so với năm trước.

Chẳng hạn, kỳ hạn phát hành bình quân năm 2018 cao hơn 0,13 năm so với năm 2017(1), của năm 2019 cao hơn 0,75 năm so với năm 2018(2), và của năm 2020 cao hơn 0,37 năm so với năm 2019, trước khi giảm nhẹ 0,02 năm vào năm 2021 so với cuối năm 2020(3).

Do bối cảnh hiện tại đang thay đổi nên nếu không có biện pháp cắt giảm nợ công thực chất thì tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ tăng nhanh chóng trở lại trong tương lai không xa.

Phía trên ta nói đây là một giải pháp kỹ thuật để giảm tỷ lệ nợ công trên GDP là bởi nếu vay với các kỳ hạn ngắn hơn thì đương nhiên dư nợ gốc và lãi hàng năm sẽ tăng lên thay vì trải dài ra trong tương lai. Và vì là một giải pháp kỹ thuật nên nó chỉ giúp làm đẹp con số nợ công trên giấy tờ, và cho trước mắt, chứ không phải là thực chất, cho tương lai dài hạn.

Thậm chí, việc kéo dài kỳ hạn của nợ công đôi khi còn gây thiệt hại hơn cho ngân sách, bởi nợ dài hạn thông thường có lãi suất cao hơn nợ ngắn hạn (trừ những giai đoạn bất thường ngắn với đường cong lợi suất bị đảo ngược), dẫn đến tiền lãi hàng năm tăng lên cho cùng một số dư nợ.

Hoàn cảnh đã và sẽ thay đổi

Hai nguyên nhân khách quan có lợi nói trên có thể sẽ không còn duy trì trong thời gian tới nữa.

Về lãi suất, xu hướng thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương thế giới, và cả của Việt Nam, sẽ làm cho lãi suất huy động của trái phiếu chính phủ bằng cả nội tệ và ngoại tệ không thể tránh khỏi xu hướng dốc ngược – đi lên, làm tăng mạnh gánh nặng trả nợ công hàng năm trong thời gian tới, như đã thấy trong phần giả định nêu trên.

Cộng thêm thực tế là nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách ngày càng tăng lên trong các năm qua (tức là Chính phủ ngày càng phải phụ thuộc vào đảo nợ; xem phân tích ở bài trước), mặt bằng lãi suất huy động tăng có nghĩa là gánh nặng chi trả nợ công của Chính phủ sẽ tăng ở một cấp độ cao hơn nữa.

Về kéo dài kỳ hạn nợ công, hiện tại, với đường cong lợi suất tạm thời đảo ngược như đang diễn ra ở một số nước/khu vực thì việc tăng kỳ hạn nợ công có thể là một điểm có lợi. Nhưng xu hướng đảo ngược đường cong lợi suất này thường không kéo dài đến hàng năm. Khi nó được bình thường hóa trở lại thì việc kéo dài kỳ hạn nợ công thay vì cắt giảm thực chất nợ công sẽ chỉ làm tăng gánh nặng nợ công như đã nói ở trên.

Tóm lại, tỷ lệ nợ công trên GDP cải thiện trong thời gian qua chủ yếu bởi những nguyên nhân khách quan/kỹ thuật như lãi suất huy động giảm mạnh, và kỳ hạn nợ được kéo dài ra. Những nỗ lực tự thân cắt giảm nợ công về mặt tuyệt đối mới chỉ dừng lại ở việc duy trì nợ nước ngoài (hầu như không tăng thêm dư nợ vay nước ngoài), trong khi vay nợ trong nước thì vẫn tăng mạnh.

Do bối cảnh hiện tại đang thay đổi nên nếu không có biện pháp cắt giảm nợ công thực chất thì tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ tăng nhanh chóng trở lại trong tương lai không xa.

(*) https://thesaigontimes.vn/mot-goc-nhin-khac-ve-tinh-hinh-no-cong/
(1) https://vbma.org.vn/storage/reports/May2021/Vietnam%20Bond%20Market%202018_Vietnamese.pdf
(2) https://mof.gov.vn/webcenter/portal/tpcp/pages_r/l/chi-tiet-tin-thi-truong-trai-phieu?dDocName=MOFUCM178023
(3) https://mof.gov.vn/webcenter/portal/tpcp/pages_r/l/chi-tiet-tin-thi-truong-trai-phieu?dDocName=MOFUCM221209

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).