Saturday 29 October 2011

Cắt sốt giá vàng - việc cần làm hơn là bình ổn (Bài đăng trên VEF)

(VEF.VN) - Điều cần nhấn mạnh ở đây là cắt sốt vàng là điều nên làm, chứ không phải là "bình ổn" giá. Hai chuyện này khác nhau về bản chất. Cắt sốt vàng là chặn vòng xoáy đổ xô mua vàng để làm cho chính sách tiền tệ phát huy tác dụng, còn "bình ổn" như ở Việt Nam là liên tục mua hoặc bán để "neo" giá vàng trong nước vào giá vàng thế giới.

Những cơn sốt vàng trong quá khứ, hiện tại, và chắc cả tương lai luôn làm đau đầu các nhà quản lý ở Việt Nam. Và để cắt cơn sốt vàng thì Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thường tìm cách can thiệp trực tiếp và gián tiếp vào chuyện mua bán vàng trong nước và thông qua kênh xuất nhập khẩu vàng. Gần đây, khi giá vàng trong nước cao hơn quá nhiều so với giá thế giới, NHNN đã đưa ra một số giải pháp "bình ổn" giá vàng mới nhằm tăng nguồn cung để thu hẹp khoảng cách này lại.

Tại sao vàng sốt?

"Sốt" vàng hay sốt bất cứ một loại hàng hóa nào khác là biểu hiện của cung cầu đột nhiên mất cân đối với chênh lệch nghiêng hẳn về phía cầu, cho dù cung có thể giảm đi, không đổi và tăng lên (nhưng vẫn nhỏ hơn tốc độ tăng của cầu). Cầu về vàng (và ngoại tệ) tăng lên thường là kết quả của một (số) biến động vĩ mô và được đốt nóng thành cơn sốc cầu bởi tâm lý bày đàn. Những biến động vĩ mô gần đây có thể kể đến là lạm phát cao, lãi suất tiền gửi bị áp trần, khả năng đổ vỡ của hệ thống ngân hàng với sự hoang mang không biết gửi tiền vào đâu cho an toàn của dân chúng, bất động sản và chứng khoán suy sụp và kém thanh khoản, thâm hụt thương mại lớn trong khi tỷ giá lại bị kìm giữ một cách khiên cưỡng, triển vọng kinh tế đầy bất trắc và rủi ro..v.v...

Trong hoàn cảnh như thế, giữ VND là có vẻ là một lựa chọn ít khôn ngoan nhất, và đương nhiên cái mà người ta thường nghĩ đến là vàng và ngoại tệ, là những nơi trú ẩn an toàn cho tài sản của mình. Khi một số người làm thế sẽ kéo theo nhiều người khác làm theo, với nhiều đồn đoán rằng giá vàng sẽ còn tăng lên nữa. Yếu tố tâm lý xuất hiện và hoàn thiện vòng xoáy tăng giá vàng (và ngoại tệ), biến việc đầu tư vào vàng thành cơn sốt.

Lý do cho việc cắt sốt vàng

Điểm lại báo chí thì thấy chỉ có một số ít lý do không nhất quán mà giới hữu trách và các chuyên gia đưa ra để biện hộ cho việc tại sao phải cắt cơn sốt vàng và bình ổn giá vàng, như tóm tắt dưới đây.

1. Nếu sốt giá (vàng) tiếp tục kéo dài và thu hút sự quan tâm ngày một lớn của dân cư sẽ khiến lượng vốn dùng để sản xuất kinh doanh nằm chết trong vàng (và không tạo ra một đồng GDP nào cho xã hội) (1).

2. Khi người dân mua vàng sẽ có những trường hợp rút tiết kiệm ra mua, gây ảnh hưởng xấu tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng vốn chưa hết khó khăn. Theo đó, các ngân hàng có thể thiếu vốn cục bộ. Hệ quả là họ có thể tiếp tục phải nâng lãi suất lên cao để giữ chân khách hàng trong khi chúng ta đang mong muốn ổn định lãi suất.

3. Khi nhu cầu mua gom vàng tăng cao, nguồn cung trong nước thiếu thì ngân hàng và doanh nghiệp sẽ lại phải dùng đôla để đi nhập khẩu. Tỷ giá khi đó sẽ chịu nhiều áp lực. Cùng với niềm tin mong manh vào tiền đồng, sốt giá vàng sẽ càng làm tăng thêm áp lực lên lạm phát.

4. Sốt vàng sẽ rút bớt vốn ra khỏi thị trường chứng khoán, và vì thế ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất đang trầy trật vì thiếu vốn.

Chúng ta sẽ lần lượt xem xét tính chính đáng của từng lý do.

Về lý do thứ nhất, khi đem ra trao đổi (mua bán) thì người mua vàng sẽ phải trả cho người bán vàng một lượng tiền (nội tệ hoặc ngoại tệ) có giá trị tương đương tại thời điểm mua bán. Giả thiết sau khi mua vàng xong, chủ sở hữu mới không bán nữa. Khi đó đúng là vàng nằm chết ở trong két sắt hoặc đâu đó. Nhưng những đồng tiền dùng để mua vàng không nhất thiết phải nằm chết theo vàng! Loại trừ một số rất ít trường hợp người bán vàng xong thì cất tiền vào tủ hoặc dưới chiếu, trong những trường hợp còn lại thì tiền đó có thể lại quay vòng để mua vàng mới, để mua cái gì khác, hoặc đầu tư vào đâu đó, kể cả gửi ở ngân hàng. Tức là, lượng vốn dùng để trao đổi vàng hoàn toàn có thể quay lại lưu thông, đi vào sản xuất, và do đó vẫn tạo ra giá trị thặng dư (GDP) cho xã hội. Vì vậy, không thể kết luận rằng cơn sốt vàng làm giảm lượng vốn cho sản xuất kinh doanh và làm giảm GDP.

Về lý do thứ hai, khi dân "chẳng may" có rút tiền tiết kiệm ra mua vàng thì cũng không nhất thiết làm ảnh hưởng đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Tương tự như phân tích ở đoạn trên, hoàn toàn có khả năng người bán vàng xong sẽ gửi lại tiền vào ngân hàng. Cũng hoàn toàn có khả năng lượng tiền thu được sau khi bán vàng lại được gửi vào hệ thống ngân hàng nhiều hơn là lượng tiền rút ra từ ngân hàng để mua vàng (ví dụ, có thêm người bán vàng gửi tiền vào ngân hàng). Do đó, vì thanh khoản trong hệ thống ngân hàng có thể không thay đổi, hoặc thậm chí tốt hơn, nên nếu dù một ngân hàng nào đó có bị rút tiền gửi ra để mua vàng thì về nguyên tắc hành động tăng lãi suất cục bộ để giữ chân khách hàng sẽ nhanh chóng bị dung hòa bởi lượng thanh khoản lớn trong hệ thống và cuối cùng lãi suất cả hệ thống sẽ trở về trạng thái cân bằng như trước.

Nếu "chẳng may" lượng tiền rút ra mua vàng có lớn hơn lượng tiền gửi vào sau khi bán vàng và dẫn đến thiếu hụt thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, thì điều này chỉ đơn giản nói lên rằng tiền gửi tiết kiệm không còn là kênh đầu tư hấp dẫn nữa. Nên nếu người ta không đầu tư vào vàng và dẫn tới cơn sốt vàng thì sẽ lại đầu tư vào một (số) tài sản khác và dẫn đến cơn sốt cho những tài sản đó, kết cục hệ thống ngân hàng vẫn sẽ phải chịu ảnh hưởng. Cho nên sẽ là quá vội vã và cảm tính khi kết luận cơn sốt vàng là nguyên nhân trực tiếp và/hoặc sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Đối với lý do thứ ba, sốt vàng đúng là sẽ làm tăng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu vàng. Nhưng suy cho cùng, Việt Nam không phải là nước có nguồn cung vàng lớn để coi vàng như một thứ "của nhà trồng được". Vì thế, trên khía cạnh này có thể coi vàng là một loại ngoại tệ (có đủ 3 chức năng của tiền tệ là phương tiện thanh toán, đo lường, và lưu trữ giá trị, cộng thêm chuyện Việt Nam không can thiệp được vào cung cầu của nó), tuy có thể coi nó là ngoại tệ đặc biệt. Vậy thì việc hoán chuyển từ USD (dùng để nhập khẩu vàng) sang vàng cũng nên coi là một việc bình thường, cũng tương tự như khi NHNN thay đổi cấu thành ngoại tệ trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình (gồm USD, Yen, Euro, vàng, và có thể một số ngoại tệ mạnh khác). Vấn đề cần và đáng tìm hiểu hơn là tại sao người ta lại muốn chuyển đổi tài sản của mình từ nội tệ sang ngoại tệ (và vàng), là cái mà ta sẽ bàn thêm dưới đây.

Về lý do cuối cùng, tiền mặt, vàng, chứng khoán, bất động sản, các loại giấy tờ có giá hoặc bất cứ một loại tài sản có tính thanh khoản nào khác suy cho cùng đều là hàng hóa và được người ta nắm giữ trong danh mục phân bổ tài sản tối ưu theo tính toán riêng của mình. Mà như đã nói ở phần trên, khi bán xong một loại tài sản nào đó, lượng vốn (tiền) thu được hoàn toàn có thể quay lại những thị trường hàng hóa nói trên (gồm thị trường chứng khoán) hoặc trực tiếp/gián tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh, hoặc bất cứ vào thị trường tiền tệ hàng hóa nào khác nếu nó mang lại lợi nhuận lớn hơn theo cách tính của chủ nhân của lượng vốn đó. Nói cách khác, các loại thị trường chỉ là nơi giao lưu và sang tên đổi chủ các dòng vốn, chứ không phải là "ao tù" để cầm tù những dòng vốn theo nghĩa là chúng phải nằm chết ở đó. Và kể cả nếu thị trường chứng khoán có bị rút ra một phần vốn thì đó là do lợi nhuận tiềm năng thu được từ thị trường này không còn hấp dẫn nữa, và không có lý do gì để cố tìm cách bảo vệ thị trường này bằng cách "chặt" đi các kênh đầu tư khác trong một nền kinh tế thị trường.

Như vậy, có thể thấy các lý do trên hoàn toàn không thỏa đáng để biện minh cho hành động can thiệp cắt cơn sốt vàng (về bản chất là cắt/giảm đi tính hấp dẫn của kênh đầu tư vàng), và đặc biệt là khi phải trực tiếp hoặc gián tiếp dùng đến nguồn lực quốc gia (dự trữ ngoại hối của NHNN) để mua vàng về bán "bình ổn". Thực tế này đòi hỏi trước khi "bình ổn" cần phải hiểu nguyên nhân sâu xa tại sao lại có cơn sốt vàng, tại sao người ta lại muốn chuyển đổi tài sản của mình từ nội tệ sang vàng (hoặc ngoại tệ nói chung), để rồi từ đó mới có quyết định có nên bình ổn hay không và làm thế nào để hiệu quả nhất.

Có nên cắt sốt và "bình ổn" giá vàng?

Khác với 4 lý do nói ở trên, người viết cho rằng lý do đáng kể duy nhất để cắt sốt vàng (hay ngoại tệ) là tăng cường tính hữu hiệu của chính sách tiền tệ của NHNN. Khi cắt được cơn sốt vàng (tức là làm cho vàng mất đi tính hấp dẫn tương đối so với các loại tài sản khác, và vì thế, người ta không còn thi nhau đổ dồn vốn vào vàng nữa) nền kinh tế sẽ bớt bị "vàng hóa", cũng tương tự như bớt bị đôla hóa. Lúc đó, nhu cầu nắm giữ tài sản bằng nội tệ sẽ tăng lên và do đó mọi thay đổi trong chính sách tiền tệ của NHNN sẽ có hiệu quả như mong muốn hơn (chẳng hạn chính sách hạ lãi suất - lưu ý là chỉ so sánh về mặt tương đối).

Nhưng điều cần nhấn mạnh ở đây là cắt sốt vàng là điều nên làm, chứ không phải là "bình ổn" giá vàng. Hai chuyện này là khác nhau về bản chất. Cắt sốt vàng là chặn vòng xoáy đổ xô mua vàng để làm cho chính sách tiền tệ phát huy được tác dụng hơn. Còn "bình ổn" giá vàng như ở Việt Nam đang thực hiện là liên tục mua hoặc bán để "neo" giá vàng trong nước vào một cái neo nào đó, mà ở đây là giá vàng thế giới, với hy vọng rằng khi giá vàng đã "ổn định" thì tâm lý đầu cơ không còn và vàng sẽ mất đi tính hấp dẫn.

Nhưng vì giá vàng thế giới biến động mạnh từng phút từng giờ nên tự nhiên giá vàng "bình ổn" trong nước cũng phải biến động theo, làm mất đi ý nghĩa của việc bình ổn giá vàng theo cái nghĩa như việc bình ổn giá thịt lợn trong nước (không tăng, ít tăng, hoặc tăng chậm), và do đó không dập tắt được tâm lý đầu cơ, và vì thế cũng không làm giảm được tính hấp dẫn của việc đầu tư vào vàng (với hy vọng giá vàng sẽ lên trong tương lai để mang lại lợi nhuận cho người đầu tư hiện tại).

Thêm nữa, kể cả khi đã "bình ổn" được giá vàng trong nước (tức là giá vàng trong nước tiệm tiến gần sát giá vàng thế giới) thì điều này cũng không đồng nghĩa với việc làm bớt đi sức hấp dẫn của vàng như một nơi trú ẩn an toàn cho tài sản của người dân thay cho nội tệ. Nếu tính hấp dẫn của kênh đầu tư vàng ở khía cạnh này (bảo toàn giá trị tài sản so với việc lưu giữ tài sản bằng nội tệ) không thay đổi trước và sau khi giá vàng được "bình ổn", khi giá vàng thế giới tăng lên thì giá vàng trong nước cũng sẽ phải tăng lên theo, kéo theo thêm một lượng tài sản được chuyển từ nội tệ sang vàng, vô hình trung càng tăng nạn "vàng hóa".

Nói cách khác, Việt Nam đang dùng liệu pháp sai cho căn bệnh sốt vàng, "vàng hóa"!

Giải pháp căn bản nào?

Từ phân tích trên, có thể thấy nguyên nhân căn bản cho căn bệnh này là sự mất lòng tin vào các tài sản bằng nội tệ (gồm cả tiền gửi ở ngân hàng), và sâu xa hơn nữa là các bất cân đối vĩ mô và vai trò và trách nhiệm của Chính phủ. Chỉ sau khi có các chính sách xử lý đúng đắn, lập lại các cân đối vĩ mô thì lòng tin vào nội tệ mới quay trở lại, và nội tệ sẽ lên ngôi thành công cụ thanh toán, đo lường và lưu trữ giá trị chính thay cho vàng hay ngoại tệ.

Nếu tiếp tục (cố tình) hiểu sai bản chất vấn đề và chỉ xử lý phần ngọn như bây giờ (cấm đoán, hạn chế, cấp giấy phép v.v...) thì nếu không dẫn đến cơn sốt vàng thì cũng sẽ dẫn đến cơn sốt những cái khác, trong khi một nguồn lực lớn của nhà nước tiếp tục được đổ ra một cách vô ích để can thiệp, như chuyện "bình ổn" giá vàng hiện nay.
______________________
Tham khảo
(1). http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2011/08/con-sot-vang-va-nhung-thu-thach-doi-voi-nen-kinh-te/

Friday 28 October 2011

Tiến sĩ để làm gì? (Bài gửi đăng báo nhưng không được đăng; vì gửi báo nên giọng điệu mới tử tế thế này)

Biết rằng nếu viết ra thì sẽ đụng chạm đến rất nhiều người. Biết rằng rất nhiều người trong số đó chọn cách im lặng AQ vì ít nhiều nó vận vào mình đúng. Biết rằng nhiều người trong số còn lại thì nổi đóa và “hãy đợi đấy” bằng cách này hay cách khác. Và biết rằng chỉ một số ít người trong số còn lại thì sẽ đàng hoàng lên tiếng phản biện. Thế nhưng vẫn cứ viết vì... tức! Vẫn cứ viết vì những người đàng hoàng lên tiếng phản biện sẽ tạo thành một cuộc thức tỉnh xã hội, tuy chỉ dám hy vọng là một đốm lửa nhỏ, để mong có một số thay đổi nhỏ về chuyện tiến sĩ ở Việt Nam.
Tức vì lẽ tại sao tiến sĩ lại nhiều thế?
Tức vì lẽ tại sao thành tiến sĩ lại dễ thế?
Tức vì lẽ cho đến giờ vẫn không hiểu được tiến sĩ thì để làm gì, làm được cái gì ở Việt Nam?
Hàng ngày, hàng tuần, có biết bao sự kiện, vấn đề quan trọng chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế thồi. Thế nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có một số ít khuôn mặt và cái tên “thân thuộc” đến độ hầu như mở báo nào ra cũng thấy của một số ít người nói ra, viết ra. Và trong số đó có một số người là tiến sĩ.
Lạ cái là, tức cái là một số trong họ (và một số tiến sĩ ít xuất đầu lộ diện khác) nói ra, viết ra có lúc thì như học sinh trả bài (nhưng không thuộc), lúc thì chung chung, chẳng chết ai nhưng cũng chẳng có ích cho ai, lúc thì sai lầm, ngớ ngẩn đến độ người dân bình thường cũng phải tự hỏi học ở đâu mà ra cái nông nỗi thế?
Một bạn là phóng viên của một tờ báo phải than trời, nguyên văn rằng: “bản thân em là người đi phỏng vấn chuyên gia và viết mấy bài về .... vừa rồi, nhưng em thấy các bác ấy nói chung chung và còn lý thuyết quá.”
Lạ thêm nữa, tức thêm nữa ở những chỗ khác không cần phải là tiến sĩ hoặc lòe ra cái mác tiến sĩ lại thấy lắm tiến sĩ thế. Đến độ, người ta phải sửa lại thành “phổ cập tiến sĩ”.
Các vị, có ai đủ dũng cảm để lên tiếng tại sao xã hội phải tốn tiền “đào tạo” và dung dưỡng các vị không?

Tuesday 25 October 2011

Phác đồ trị 'bệnh' cho hệ thống ngân hàng (Phần tiếp theo; phải cảm ơn đồng chí biên tập viên VEF đặt cho cái tiêu đề rất câu khách)

(VEF.VN) - Phương pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng để ngăn ngừa một sự đổ vỡ trước mắt và phục hồi lòng tin thì có nhiều, nhưng quan trọng là chúng không ảnh hưởng xấu hoặc đảo ngược tiến trình cải cách và lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng trong dài hạn.

Khi nào thì cần tái cấu trúc?

Trước khi bắt đầu, cần nói qua một chút về khái niệm. Cụm từ "tái cấu trúc hệ thống ngân hàng" chỉ dùng khi có bằng chứng mất khả năng thanh toán của một bộ phận trong hệ thống ngân hàng thương mại ở một quy mô nhất định nào đó, mà theo như một số tác giả thì tương đương với 20% tổng lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng. Nếu ở quy mô nhỏ hơn thì cụm từ "tái cấu trúc ngân hàng" là chính xác hơn, liên quan đến việc xử lý khả năng mất thanh khoản của từng ngân hàng riêng biệt.

Ở Việt Nam, vì chưa/không có những số liệu đáng tin cậy về rủi ro mất thanh khoản của từng ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng nên sự cần thiết phải tiến hành "tái cấu trúc hệ thống ngân hàng" đã chưa được minh chứng đầy đủ, gợi cho ta thấy cái gì đó như có tính phong trào, cũng như kiểu gần đây rộ lên cụm từ "tái cấu trúc nền kinh tế", mặc dù không có nhiều người hiểu đúng thế nào là tái cấu trúc nền kinh tế và, quan trọng hơn, là nên bắt đầu từ đâu, làm như thế nào, bằng phương tiện gì..v.v...

Giả thiết rằng hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trên bờ vực khủng hoảng, mất khả năng thanh toán do nợ xấu tăng mạnh và thiếu hụt thanh khoản (ở một số ngân hàng, và có khả năng lây lan rộng và nhanh chóng), cần phải thực thi ngay việc tái cấu trúc nó. Lúc này, tình hình đã vượt khỏi phạm vi trách nhiệm và can thiệp của NHNN.

Chính phủ cần phải đưa ra một gói chính sách và giải pháp, bao gồm chuẩn đoán ở tầm vĩ mô các nguyên nhân gây ra rủi ro đổ vỡ hệ thống cũng như các giải pháp ở tầm vi mô để tăng cường giám sát hoạt động ngân hàng, sửa chữa những thiếu sót trong hệ thống pháp lý, luật lệ và trong công tác kế toán, kiểm toán, và cứu vớt hay giải thể các ngân hàng mất khả năng thanh toán. Sự thành công của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào một chiến lược toàn diện xử lý hữu hiệu tất cả các vấn đề này.


Trị "bệnh" cho ngân hàng cần một gói chính sách và giải pháp.

Mất khả năng thanh toán - Khó thấy, khó thừa nhận

Trở ngại đầu tiên khi tái cấu trúc ngân hàng, cho dù là tái cấu trúc một ngân hàng hay cả hệ thống, là sự thiếu động lực cho cả giới quản lý ngân hàng lẫn giới giám sát ngân hàng để nhận ra và xử lý các ngân hàng mất khả năng thanh toán. Mặc dù người ta đã cố gắng áp dụng các chuẩn mực vốn theo khuyến nghị của Ủy ban Giám sát ngân hàng Basle (Basle Committee) để đánh giá rủi ro tài sản ngân hàng nhưng sẽ vấn rất khó để giới quản lý và giám sát ngân hàng nhận ra và thừa nhận rằng một ngân hàng nào đó đang phải đối mặt với thua lỗ không thể khắc phục được trong một thời gian định trước theo luật định hiện hành.

Lý do đằng sau việc này một phần là bởi sự thiếu vắng các chuẩn mực kế toán dẫn đến các khoản vay xấu tiếp tục được gia hạn, một phần là bởi người ta e ngại rủi ro chính trị khi phải tuyên bố dùng tiền thuế của dân để cứu vớt ngân hàng phá sản, và phần nữa là do các ông chủ ngân hàng cũng như Chính phủ muốn duy trì một ngân hàng nào đó để cấp vốn cho một nhóm lợi ích hoặc một bộ phận kinh tế nào đó bằng mọi giá cho đến lúc nào có thể. Điều không may là việc không nhận ra và có hành động kịp thời đối với một ngân hàng có vấn đề nào đó thường dẫn tới sự tích tụ các tài sản xấu và ở trong các ngân hàng làm tăng khả năng đổ vỡ cho toàn hệ thống, để rồi người ta lại càng tìm cách che đậy và do đó vòng xoáy che giấu - tích tụ tài sản xấu - che giấu càng ngày càng tăng mãnh liệt đến lúc sụp đổ cả hệ thống.

Ở Việt Nam, trong tình hình tù mù thông tin với những lời đồn đoán, người ta chỉ được nghe những lời tuyên bố của giới quản lý ngân hàng nào đó rằng ngân hàng của họ chỉ có tỷ lệ nợ xấu dăm ba phần trăm gì đó, còn lâu mới đạt đến giới hạn nguy hiểm. Hy vọng rằng tình hình thực tế không giống như những gì mô tả ở đây.

Các kịch bản đối phó

Chính phủ nếu không muốn đóng cửa các ngân hàng phá sản thì thường sử dụng đến mấy giải pháp như: (i) gửi tiền vào tổ chức ngân hàng có vấn đề, biến nó thành vốn góp chủ sở hữu. Việc này thường dẫn đến tổn thất lớn về ngân sách và dự trữ ngoại hối quốc gia; (ii) sáp nhập dưới bàn tay đạo diễn của Chính phủ. Chính sách này đặc biệt hay được dùng khi Chính phủ bị hạn chế bởi nguồn vốn dùng để xử lý hậu quả của việc đóng cửa ngân hàng và khi toàn hệ thống ngân hàng có đủ lực tài chính để hấp thu ngân hàng phá sản. Tuy nhiên, khi phần lớn hệ thống bị suy sụp thì việc sáp nhập trở nên bất khả; và (iii) Chính phủ trực tiếp hỗ trợ. Có một số hình thức hỗ trợ, tùy thuộc vào mức độ khủng hoảng thanh khoản của các ngân hàng. Nếu tình hình chưa đến mức độ nghiêm trọng thì chính phủ có thể hỗ trợ thanh khoản, áp đặt trần lãi suất huy động (để chuyển một phần tổn thất vốn do nợ xấu cho người gửi tiền gánh chịu), kết hợp với việc cấm chuyển tiền gửi ra nước ngoài hoặc mở rộng loại hình kinh doanh hợp pháp cho ngân hàng (với hy vọng rằng các ngân hàng sẽ thành công ở những mảng kinh doanh phi ngân hàng này hơn là ở những mảng kinh doanh ngân hàng truyền thống). Dường như Chính phủ và NHNN đã có một số kinh nghiệm áp dụng cả 3 biện pháp này trong một vài thời điểm ở Việt Nam.

Khi tình hình thiếu hụt thanh khoản ở mức khủng hoảng thì các biện pháp can thiệp và hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ phải nhằm xử lý các vấn đề về thiếu hụt vốn (điều lệ) và mất cân đối trên bảng cân đối tài sản của các các ngân hàng. Điển hình của các biện pháp này là sự bơm vốn trực tiếp của Chính phủ vào ngân hàng có vấn đề thông qua việc mua lại các tài sản xấu và cổ phần của các cổ đông (chính) và đưa người của mình vào các vị trí quản lý chủ chốt. Kèm theo đó, Chính phủ cũng có thể tuyên bố bảo lãnh cho tất cả các khoản tiền gửi (theo đó là tăng rủi ro đạo đức, như nói ở phần trên).



Bốn bước tái cấu trúc

Như vậy, phương pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng để ngăn ngừa một sự đổ vỡ trước mắt và phục hồi lòng tin thì có nhiều, nhưng điều quan trọng hơn là việc sử dụng chúng không được làm ảnh hưởng xấu hoặc đảo ngược tiến trình cải cách và lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng trong dài hạn. Để tái cấu trúc thành công trong dài hạn cần sử dụng các phương pháp thỏa mãn được các tiêu chí: tiết kiệm tối đa phí tổn, đơn giản khi thực hiện, phân bổ tổn thất một cách công bằng, giảm thiểu gánh nặng tài chính cho khu vực công, tránh tạo ra thêm các rủi ro đạo đức, và nâng cao chất lượng quản trị ngân hàng.

Khó có thể biết những biện pháp tái cơ cấu một hay một số ngân hàng có vấn đề nào đó của NHNN từ trước cho đến nay có thỏa mãn được các tiêu chí này không, cũng do vì sự không công khai thông tin từ NHNN. Thậm chí, theo lời nguyên Thống đốc NHNN Lê Đức Thúy, khi ông tại vị đã tiến hành một loạt các vụ sáp nhập các ngân hàng thương mại với nhau mà người ta chỉ biết được khi ông tiết lộ gần đây.

Về mặt pháp lý, quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng sẽ bao gồm 4 công việc có liên quan đến nhau:

1. Phục hồi lòng tin vào hệ thông ngân hàng (thông qua bảo lãnh tiền gửi, củng cố cơ cấu thể chế, thi hành các chuẩn mực kiểm toán và kế toán quốc tế, nhất là chi tiêu phân loại tài sản, thắt chặt công tác giám sát tuân thủ luật lệ, đào tạo cán bộ thanh tra giám sát của Chính phủ và nhân lực kiểm toán.

2. Thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho can thiệp của Chính phủ nhằm đảm bảo rằng hệ thống bảo hiểm tiền gửi có đủ vốn để xử lý khủng hoảng và có thể được sử dụng một cách nhanh chóng và hiệu quả, và Chính phủ có được một quy trình toàn diện về theo dõi và đánh giá liên tục tình trạng nợ xấu và mất thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, tránh được tình trạng bị động.

3. Thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho can thiệp của Chính phủ vào ngân hàng mất khả năng thanh toán. Quá trình can thiệp của Chính phủ sẽ làm nảy sinh một số vấn đề về pháp lý liên quan đến việc nắm giữ cổ phần của các cổ đông hiện tại và vì thế cần có luật tương ứng để điều chỉnh. Ví dụ, khi Chính phủ bơm vốn vào cho một ngân hàng và nếu muốn các cổ đông hiện tại phải rút bớt cổ phần tương ứng để Chính phủ trở thành cổ đông chính có quyền bổ nhiệm người của mình vào các vị trí quản lý thì cần phải có một luật cho phép Chính phủ làm như vậy nếu họ không tự nguyện xin rút.

4. Thiết lập một cơ cấu để phục hồi tối đa các khoản nợ xấu. Phần nợ xấu (đáng kể) sau khi đã được phân loại thì chuyển giao xử lý cho (i) một bộ phận độc lập trong ngân hàng, chuyên trách về việc phục hồi tài sản; hoặc (ii) một cơ quan chuyên trách của Chính phủ như công ty quản lý tài sản (ACM) chuyên tiếp nhận, quản lý và thanh lý tài sản xấu.

Như vậy, có thể thấy quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều biện pháp pháp lý triển khai theo từng bước từ những biện pháp khẩn cấp lập lại lòng tin đến việc tạo dựng những cơ chế để xử lý những ngân hàng đổ vỡ và giải quyết tài sản tồn đọng của chúng.

Bên cạnh tính pháp lý, yếu tố con người cũng rất quan trọng. Những cán bộ thanh tra giám sát ngân hàng cần phải được đào tạo và trang bị các kỹ năng để thực thi các luật định, và các nhà quản lý ngân hàng cần phải thấy được các lợi ích thiết thực khi tuân thủ nghiêm túc các luật định phòng ngừa rủi ro và thi hành các tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán quốc tế. Nói cách khác, khuôn khổ pháp lý xung quanh viêc tái cấu trúc ngân hàng cần đảm bảo một cơ cấu thưởng phạt nhất quán để trừng trị các hành động gian lận, đầu cơ, đồng thời tưởng thưởng thái độ tuân thủ pháp luật về phòng ngừa rủi ro.

Rất mong là trên thực tế NHNN và rộng hơn là Chính phủ đã có những bước chuẩn bị và đã xây dựng được những thể chế và khuôn khổ pháp lý cần thiết, áp dụng và thực thi được các chuẩn mực quốc tế trong phòng ngừa rủi ro, và xây dựng được đội ngũ nhân lực chuyên môn để sẵn sàng phục vụ cho quá trình tái cấu trúc ngân hàng khi cần thiết, và trên hết hiểu rõ được nguyên nhân và cách xử lý vấn đề ..v.v... là những thứ mới nêu được một phần trong bài này.

Cũng mong rằng những bên hữu quan trên thực tế đã thực hiện được một số công việc cần làm liên quan đến tái cấu trúc mà không chỉ dừng lại ở việc tranh luận xem tái cấu trúc thì cần xóa bỏ ngân hàng nào, xóa bỏ bao nhiêu ngân hàng thì là đủ, xóa bỏ xong rồi thì làm gì... như đang diễn ra sôi nổi hiện nay, vốn chỉ làm cho người ta nghi hoặc rằng rốt cuộc hiểu biết về vấn đề tái cấu trúc còn quá hạn chế, mâu thuẫn, bất nhất, trong khi chưa có nhiều việc cần làm đã làm xong để sẵn sàng đối mặt với nguy cơ của một cuộc khủng hoảng thật sự có thể diễn ra nay mai.

Monday 24 October 2011

Ngân hàng Việt đã lún sâu vào khó khăn (bài đăng trên VEF 24/10/2011, có edit tí chút, ngày 25/10 đăng tiê'p kỳ 2)

Link: http://vef.vn/2011-10-22-ngan-hang-viet-da-lun-sau-vao-kho-khan

(VEF.VN) - Yếu kém về quản trị cũng như thực thi chưa nghiêm việc đánh giá, phòng ngừa rủi ro đã đẩy hệ thống ngân hàng lún sâu vào khó khăn khi có các biến động vĩ mô mang lại - TS. Phan Minh Ngọc, Phó giám đốc nghiên cứu DN của Ngân hàng Sumitomo Mitsui chi nhánh Singapore, phân tích.

Vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng lại một lần nữa được đặt ra gần đây với sức nóng ngày càng tăng theo hiện trạng xấu đi của nền kinh tế. Có điều, dường như người ta nhìn nhận nguyên nhân gây ra bất ổn hiện nay trong hệ thống ngân hàng là những nguyên nhân có tính ngắn hạn, mới xảy ra gần đây, và quan trọng hơn, nằm ở phía ngân hàng thương mại chứ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nói riêng và Chính phủ nói chung không có liên quan gì mấy. Việc tái cấu trúc ngân hàng xem ra cũng chưa được hiểu đúng, đầy đủ, đôi khi được đơn giản hóa tối đa thành chuyện NHNN tìm các ngân hàng nào nhỏ, có vẻ bí thanh khoản để tái cấp vốn (mua lại), biến thành sở hữu nhà nước và đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của NHNN, hoặc buộc các ngân hàng này sát nhập vào những ngân hàng lớn hơn, có vẻ "ổn" hơn, và tiến trình này chỉ cần ngày một ngày hai là kết thúc.

Bài viết bàn về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ bắt đầu với việc phân tích những nguyên nhân gây ra thực trạng bất ổn của hệ thống ngân hàng, có những nguyên nhân dài hạn bên cạnh những nguyên nhân ngắn hạn, có nguyên nhân từ phía NHNN nói riêng và Chính phủ nói chung, đồng thời cũng có nguyên nhân từ phía các ngân hàng thương mại.

Phần tiếp theo, bài viết sẽ nêu một số công việc cụ thể phải làm khi tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng với giả thiết rằng hiện tại hệ thống ngân hàng đã lâm vào tình trạng sắp đổ vỡ mang tính hệ thống, chủ yếu nhìn từ góc độ thể chế và pháp lý, trong đó có những việc phải làm ngay, trong ngắn hạn, và có những việc phải thực hiện trong cả một quá trình lâu dài hơn.

Lưu ý rằng, do đăng tải trên tờ báo phổ thông nên bài viết sẽ ở dưới dạng cố gắng giản lược hóa, không có nhiều số liệu minh họa, và cũng không hoàn toàn đầy đủ, tổng quát, chỉ nêu ra một số ý chính mà tác giả thấy cần đưa ra thảo luận.

Có 3 tập hợp yếu tố dẫn đến sự hình thành và tích tụ các rủi ro gây đổ vỡ mang tính hệ thống cho hệ thống ngân hàng.

Bùng nổ về số lượng, "quên" chất lượng

Thứ nhất, đó là sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng trong những năm gần đây, nhưng không đi kèm với sự tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro, quản trị ngân hàng, cũng như công tác thanh tra giám sát của NHNN.


Có 3 tập hợp yếu tố dẫn đến sự hình thành và tích tụ các rủi ro gây đổ vỡ mang tính hệ thống cho hệ thống ngân hàng.

Ở Việt Nam, chỉ trong vòng mấy năm gần đây đã chứng kiến sự bùng nổ của hệ thống ngân hàng với sự tăng mạnh về con số ngân hàng và chi nhánh được thành lập cũng như về tốc độ tăng trưởng tín dụng bắt nguồn từ tăng trưởng cao của cung tiền là hậu quả của chính sách tiền tệ nới lỏng. Đến lượt mình, gia tăng tăng trưởng tín dụng lại dẫn đến tăng trưởng kinh tế nóng và tăng áp lực lạm phát. Điều đáng nói là sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng không đồng hành với sự cải thiện đáng kể trong công tác phòng ngừa rủi ro (như không áp dụng các chuẩn mực quốc tế về phân loại vốn vay, trích lập dự phòng, và công bố thông tin) cũng như việc giám sát, thanh tra và xử phạt của NHNN, lại còn bị tác động bởi nạn tham nhũng, can thiệp bởi chính quyền và các nhóm lợi ích. Công tác quản trị yếu kém ngoài lý do xem nhẹ tầm quan trong của nó trước áp lực mở rộng về lượng còn do bởi việc không có hoặc không hoạt động hiệu quả của các cơ quan thanh tra, giám sát của NHNN cũng như của các tổ chức xếp hạng rủi ro tín dụng.

Tệ hại hơn, nhiều ngân hàng được thành lập bởi các tập đoàn kinh tế hay một nhóm lợi ích - mà nòng cốt là một số cá nhân tư bản với mục đích là cung cấp vốn cho nội bộ tập đoàn đó, nhóm lợi ích đó - mà vì thế chất lượng các khoản cho vay, cũng như hạn mức cho vay, không bao giờ là điều đáng quan tâm.

Thêm nữa, khi thị trường chứng khoán và nhà đất có dấu hiệu tăng trưởng mạnh, các ngân hàng thi nhau đổ vốn vào đó, tự mình đặt vào vị trí chịu cả rủi ro tín dụng lẫn rủi ro thị trường và do đó rất dễ tổn thương nặng bởi sự lên xuống của giá cả ở hai thị trường đầy rủi ro này.

Sự tăng trưởng quá nhanh của hệ thống ngân hàng về lượng nhưng không đi kèm với sự tăng trưởng tương ứng về chất, trong đó có nguồn nhân lực ngân hàng, với nạn thiếu hụt nhân sự lành nghề đánh giá được mức độ rủi ro là một trong những nguyên nhân đẩy hệ thống ngân hàng Việt Nam vào tình thế khó khăn như hiện nay.

Nhân đây, cũng cần nói thêm đôi điều về luồng ý kiến quy kết nguyên nhân gây ra rủi ro đỗ vỡ cho hệ thống ngân hàng Việt Nam là từ chủ trương cho thành lập mới một loạt ngân hàng, nhất là các ngân hàng được nâng cấp từ nông thôn lên thành thị.

Ông Lê Đức Thúy, nguyên Thống đốc NHNN và là tác giả của chủ trương đó chỉ biện hộ một cách yếu ớt tại sao lại làm như vậy (1) mà không thể phản biện được rằng về bản chất chủ trương này chẳng có gì sai trái (thậm chí là ngược lại vì làm tăng tính cạnh tranh và nhờ đó tăng cường hiệu quả hoạt động của các ngân hàng) NẾU song song với sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới, các điều kiện cần cho nó, ví dụ như chuyện đào tạo nhân lực và tăng cường công tác quản lý, phòng ngừa rủi ro theo chuẩn mực quốc tế ..v.v... cũng được thỏa mãn.

Bất cân đối cơ cấu và rủi ro đạo đức

Tập hợp yếu tố thứ hai làm tăng tính dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng Việt Nam là sự bất cân đối về thị phần cũng như sở hữu chi phối, rủi ro đạo đức, và thiếu vắng cơ chế khuyến khích thực thi các biện pháp quản trị đúng đắn.

Mặc dù số lượng ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng gần đây, có thể nói hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn bị chi phối bởi một số "ông lớn" ngân hàng thương mại nhà nước vốn chiếm thị phần đa số trong thị trường ngân hàng. Tuy nhiên, sự tập trung quá mức này cũng sẽ chẳng có gì đáng nói nếu đi kèm với nó là động lực khuyến khích các hoạt động đúng đắn. Sự bất đối xứng còn hiện diện ngay trong cơ cấu sở hữu của một ngân hàng thương mại, nơi một hoặc một vài cá nhân cổ đông vẫn chiếm đa số cổ phần của ngân hàng. Sự tập trung quá mức này còn dẫn đến tình trạng bất đối xứng thông tin giữa các cổ đông và vì thế những cổ đông chi phối là người hưởng lợi. Cho dù việc cung cấp thông tin là bắt buộc thì thông tin cung cấp cũng không được đảm bảo là chính xác do công tác kiểm toán và các tiêu chuẩn kế toán yếu kém.



Rủi ro đạo đức tồn tại phổ biến trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua việc Chính phủ trực tiếp can thiệp, chỉ đạo, hoặc bảo lãnh cho vay một số dự án, doanh nghiệp, ngành nghề, bộ phận kinh tế nào đó, dẫn đến việc các ngân hàng cho vay mà không cần bận tâm đến tính khả thi của dự án, khả năng sống còn của doanh nghiệp (đây cũng có thể coi là biểu hiện của việc tước đi động cơ buộc ngân hàng thực thi chính sách phòng ngừa rủi ro đúng đắn). Theo đó là cho vay quá mức, lợi nhuận thấp, dòng tiền hạn chế, và kết cục phát sinh các khoản nợ xấu. Rủi ro đạo đức cũng phá sinh từ việc Chính phủ tuyên bố công khai sẽ cứu giúp các ngân hàng có nguy cơ mà không hề đưa ra một lộ trình thoái lui nào. Bảo hiểm tiền gửi công khai và ngầm định cũng là một nguồn khác cho rủi ro đạo đức, làm cho giới quản lý ngân hàng ở Việt Nam càng thêm mạo hiểm đầu tư vào những lĩnh vực đầy rủi ro mà họ sẽ không bao giờ dám làm khi khác đi.

Tính hai mặt của chính sách vĩ mô và hội nhập

Tập hợp yếu tố thứ ba góp phần tạo ra sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng là các chính sách kinh tế vĩ mô và sự hội nhập tài chính. Trong những năm trước, nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ và tài khóa được nới lỏng tối đa, và tín dụng vì thế tràn ngập nền kinh tế, không những làm tăng áp lực lạm phát mà còn chảy vào các lĩnh vực đầu cơ đầy rủi ro như chứng khoán và bất động sản, kéo theo sự tăng nóng về giá cả của những mặt hàng này, lại kích thích thêm nữa tín dụng ngân hàng chảy vào đó.

Sang năm nay, khi lạm phát đã có dấu hiệu nguy hiểm thì gánh nặng kiềm chế lạm phát lại bị dồn lên vai chính sách tiền tệ. Lãi suất tăng cao, còn tín dụng cho chứng khoán và bất động sản bị thắt lại. Giá chứng khoán và bất động sản sụt giảm làm cho giá trị các khoản thế chấp cũng sụt giảm tương ứng. Đi kèm với đó là tình trạng nhiều nhà đầu cơ mất khả năng thanh toán đã làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này và làm xấu đi nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của nhiều ngân hàng.

Lãi suất VND cao còn dẫn đến chênh lệch lãi suất cho vay bằng VND và USD tăng lên trong khi NHNN tuyên bố là sẽ giữ ổn định tỷ giá. Trong môi trường đó, các doanh nghiệp và ngân hàng được khuyến khích vay nước ngoài, vay bằng ngoại tệ thay vì nội tệ (trong khi nguồn thu trả nợ lại bằng nội tệ) và không bận tâm đến việc hedging phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá. Nếu trong những tháng tới, tỷ giá vì một lý do nào đó tăng vọt, chắc chắn tỷ lệ nợ xấu của những con nợ vay bằng ngoại tệ nhưng lại có nguồn thu chủ yếu bằng nội tệ sẽ tăng vọt.

Hội nhập tài chính cũng là một lý do quan trong làm tăng khả năng bị tổn thương của hệ thống ngân hàng nội địa. Sự cho phép thành lập và hoạt động các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, một mặt, mang lại những lợi ích thiết thực như chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, mặt khác lại làm tăng tính cạnh tranh trong hệ thống. Do sự ưu việt hơn trong hoạt động và tập trung vào khu vực doanh nghiệp, tập đòan kinh tế trong và ngoài nước hàng đầu, các ngân hàng nước ngoài đã lấn át các ngân hàng nội địa ở phân khúc này, buộc các ngân hàng nội địa phải lấn sâu thêm vào phân khúc hạng trung gồm những doanh nghiệp hạng hai, doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân, là phân khúc tất nhiên có độ rủi ro cao hơn.

Như một vòng luẩn quẩn, vì rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường áp dụng lãi suất cao hơn cho các đối tượng vay này (không hiếm khi vượt quá sức chịu đựng của họ khi có biến động vĩ mô) và dùng thế chấp là bất động sản hay một số tài sản có tính thanh khoản khác. Hai yếu tố này sẽ làm ngân hàng dễ bị tổn thương hơn nữa trong môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn với lãi suất tăng cao và giá bất động sản giảm dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng thêm.

Ngoài ra ngân hàng nội địa còn cạnh tranh với nhau theo khu vực địa lý, mở thêm nhiều chi nhánh và địa điểm giao dịch ở những vùng sâu, vùng xa hơn, đồng nghĩa chi phí họat động tăng lên trong khi mức độ rủi ro cũng tăng lên.

Tuy vậy, đáng chú ý là bất chấp rủi ro tăng lên, nhiều ngân hàng vẫn tiếp tục có phần trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu thấp hơn bản thân các khoản nợ xấu đó vì được phép khấu trừ giá trị tài sản thế chấp vào giá trị khoản nợ xấu.

Để kết luận cho phần đầu bài viết, có thể thấy tình trạng yếu kém hiện tại trong hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân phức hợp, đan xen lẫn nhau, và diễn ra trong cả một quá trình kéo dài ít nhất từ vài năm trước. Nổi lên trong đó là sự yếu kém về quản trị trong từng ngân hàng, quản trị cả hệ thống ngân hàng, cũng như sự thiếu vắng các động cơ khuyến khích các ngân hàng thực thi nghiêm túc việc đánh giá, công tác phòng ngừa rủi ro đúng đắn. Chính khiếm khuyết về cấu trúc đó đã đẩy hệ thống ngân hàng lún sâu vào khó khăn khi có các biến động vĩ mô mang lại từ bản thân các chính sách kinh tế trong nước lẫn biến động đến từ bên ngoài.

(Còn tiếp)

Bài 2: Phác đồ trị 'bệnh' cho hệ thống ngân hàng
____________________
Tham khảo:

(1). Chưa phải thời điểm sáp nhập ngân hàng, Tiền Phong, ngày 19/10/2011. http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/555466/Chua-phai-thoi-diem-sap-nhap-ngan-hang-tpp.html

Thursday 13 October 2011

Nói thêm về chuyện làm từ thiện của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia

Tớ quên không, đúng hơn là không buồn, đọc kỹ nội dung của bài báo đưa tin về chuyện này, phần liên quan đến nguồn kinh phí để làm từ thiện, vì nghĩ rằng chỉ có thể trích ra từ lợi nhuận hoặc hạch toán nhập nhằng vào thành những khoản chi hợp lý. Nay ngồi đọc lại thì thấy nguyên văn là thế này: “Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, ông Phùng Đình Thực, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cho biết: Chương trình an sinh xã hội của Tập đoàn khi thực hiện đều đạt được sự thống nhất cao trong Đảng ủy, Hội đồng thành viên Tập đoàn. Những mục tiêu khi thực hiện các chương trình an sinh xã hội đã trở thành một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, song hành với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Kinh phí để thực hiện các chương trình an sinh xã hội của Tập đoàn được hình thành từ nguồn thu do cán bộ CNVC trong cơ quan tự đóng góp. Hàng năm, Tập đoàn tổ chức vận động CBCNV làm thêm 5 ngày vào các ngày nghỉ để ủng hộ các hoạt động an sinh xã hội của Tập đoàn.”

Có thật vậy không? Có thật là tiền làm từ thiện là từ tiền túi của cán bộ CNVC trong TDDK hay không? Không khó để thấy là KHÔNG!

Giả sử toàn TDDK có 10.000 cán bộ CNVC, và tất cả số người này đều (bị, bắt buộc) tham gia hoạt động từ thiện. Theo bài báo thì: “... từ năm 2006 đến năm 2010, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã tài trợ hơn 1.902 tỷ đồng để hỗ trợ xây nhà Đại đoàn kết, trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, tham gia các chương trình đền ơn, đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, chương trình biển đảo...” Như vậy trong 4 hoặc 5 năm, bình quân mỗi cán bộ CNVC đã đóng góp là 1.902 tỷ/10.000 = 190,2 triệu đồng. Và bình quân mỗi năm, mỗi người này đã đóng góp 190,2 triệu/4 (hoặc /5) = 47 triệu (hoặc 38 triệu). Đâu ra mà lắm thế? Thu nhập bình quân ròng (sau thuế) của cán bộ CNVC của TDDK có được 100 triệu/năm không? Thôi cứ cho hẳn là 200 triệu năm đi. Liệu họ có đủ hào hiệp để cắt nghiến ra ¼, 1/5 thu nhập của mình để làm từ thiện không, trong nhiều năm không?

Nếu câu trả lời là không thì có nghĩa là kinh phí làm từ thiện này không phải là do cán bộ CNVC của TDDK tự đóng góp (nên hiểu là đóng góp từ thu nhập của mình) như bác Thực phát biểu. Chính xác hơn, nguồn kinh phí này có thể có một phần từ nguồn đóng góp của cán bộ CNVC, nhưng không phải là tất cả từ đó. Suy ra tiếp là phần còn lại phải lấy ra từ lợi nhuận hoặc hạch toán thành các khoản chi phí hợp pháp, hợp lý của TDDK và kết cục là khoản nộp ngân sách và hoặc lợi nhuận trích nộp lại cho nhà nước phải giảm tương ứng. Mà như vậy thì phần viết trước của tớ chẳng có gì sai cả.

Wednesday 12 October 2011

Cải cách, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước cần bắt đầu từ đâu?

Chẳng cần phải nghĩ ngợi lôi thôi, nhìn đâu xa, suy xét rắc rối làm gì mà hãy nhìn vào ngay và chấm dứt ngay những việc có thể gọi là “lố bịch” như thế này. Chẳng là hôm nay nhân cáo ốm ở nhà, đọc báo chơi tớ thấy có bài này: "Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam: Chăm lo cho người nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm" (http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1372&Style=1&ChiTiet=40391).

Càng đọc càng thấy mị dân và đúng nghĩa là lố bịch.

“Chăm lo cho người nghèo” không phải là nhiệm vụ, và càng không phải là “một trong những nhiệm vụ trọng tâm” của tập đoàn này hay bất cứ tập đoàn nào khác ở Việt Nam. Tớ không đọc các văn bản liên quan đến việc thành lập và hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (TDDK) nên không dám chắc rằng có bác lãnh đạo nào đó hứng chí lên phang luôn điều này vào trong điều lệ hoạt động của nó hay không. Nhưng nếu đúng có như vậy thì cần phải cắt bỏ ngay điều khoản này nếu muốn bắt đầu thực hiện nghiêm túc quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Vì:

Thứ nhất, về chức năng, chăm lo cho người nghèo là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách của Chính phủ, của các tổ chức phi Chính phủ. Đã là doanh nghiệp thì nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh mang lại lợi nhuận cho cổ đông. Vì là doanh nghiệp nhà nước, mà lại là doanh nghiệp đầu mối, nên nhiệm vụ của TDDK chắc là có thêm chuyện đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia, chứ không nên và không được có thêm chức năng “chăm lo cho người nghèo”.

Thứ hai, về nguyên tắc, nếu quả đúng TDDK có lòng thương người đến như vậy thì cũng không thể đem tiền cho người nghèo như vậy một cách vô nguyên tắc như vậy được. Kể cả khi biện hộ rằng tiền này là trích từ lợi nhuận của nó. Tại sao ư? Vì kể cả tiền trích từ lợi nhuận thì cũng đều là tiền thuộc về chủ sở hữu của nó, tức là nhà nước, và tức là toàn dân Việt Nam, và chi tiêu thế nào là thuộc về quyết định của nhà nước mà đại diện là Chính phủ, chứ không phải là thuộc quyết định của TDDK. Làm từ thiện kiểu này có nghĩa là mị dân nhưng lại theo kiểu “của người phúc ta”, tiền của dân trích ra mang cho (một bộ phận) dân còn mình thì được tiếng thơm là hào hiệp, tử tế.

Thứ ba, về tính kinh tế, cứ cho là TDDK được phép làm cái việc sai chức năng và vô nguyên tắc này thì việc làm này rất phi kinh tế. Hoạt động từ thiện không chuyên nghiệp của TDDK sẽ không thể hiệu quả bằng các tổ chức chuyên trách của Chính phủ và phi Chính phủ. Nếu muốn có hiệu quả hơn thì TDDK phải lập ra một cái ban chuyên trách, đại loại như “Ban từ thiện”. Như vậy, hoạt động của ban này sẽ gây tốn kém, tiêu tốn thêm nguồn lực cho TDDK, và cuối cùng là gặm vào phần lợi nhuận trích nộp ngân sách (tức là liên quan đến phần để lại cho dân), chưa nói đến chuyện tính hiệu quả của cái ban này cũng không thể bằng được các cơ quan chuyên trách khác vì tính quy mô của nó.

Thứ tư, về tính minh bạch, các doanh nghiệp nhà nước thường có những lời biện bạch đại loại rằng doanh nghiệp bị thua lỗ, khó khăn là vì phải thực hiện “nhiệm vụ an sinh xã hội”, “ổn định kinh tế vĩ mô”. Thế là tất cả các yếu kém, ngu dốt, sai lầm trong bộ máy quản lý được xóa nhòa bởi nhiệm vụ cao cả này.

Tóm lại, chỉ nói sơ qua như vậy thôi cũng đủ thấy cái sự “vớ vẩn” trong những cái chủ trương kiểu này từ doanh nghiệp nhà nước và từ những “đại diện” cho ông chủ thật sự của chúng. Cải cách và tái cơ cấu doanh nghiệp không phải nhìn đâu xa mà hãy bắt đầu từ việc cắt bỏ những cái vớ vẩn như thế này.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).