Monday, 17 February 2014

Lãi suất của Việt Nam cao hay thấp? (Bài đăng trên TBKTSG Online, ngày 17/2/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/home/diendan/blog/110347/

Bản gốc này khác với bản đăng trên TBKTSG ở chỗ là tớ đã điều chỉnh lại vị trí của VN trong các xếp hạng, với các nước được xếp hạng từ cao đến thấp, thay vì từ thấp đến cao như trong bản trên TBKTSG dế gây hiểu lầm.
--------------------------------------------------------------
2, 3 năm gần đây lãi suất cho vay ở Việt Nam liên tục bị ngay cả nhiều chuyên gia phàn nàn là quá cao so với mức trung bình của thế giới và khu vực, làm cho các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với doanh nghiệp nước ngoài, nơi có lãi suất thấp hơn nhiều. Nhưng rất ít người có thể thấy được sự thật đằng sau bức tranh lãi suất danh nghĩa cao này.
Bài viết này sẽ sử dụng số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) để so sánh một số chỉ tiêu vĩ mô và tài chính ở Việt Nam với một số nước khác trên thế giới và khu vực để phân tích một số vấn đề liên quan đến lãi suất của Việt Nam trong mối tương quan với lãi suất ở những nước khác.

Lãi suất cho vay danh nghĩa của Việt Nam khá cao


Trong số 128 quốc gia có số liệu về lãi suất cho vay năm 2012 (cột 1) thì lãi suất cho vay trung bình cả năm của Việt Nam ở mức 13,5%/năm, đứng ở vị trí thứ 40 (xem bảng trên; giá trị xếp từ cao đến thấp). Mức lãi suất cho vay bình quân của 128 nước này là 12%/năm, mức trung vị là 10,6%, và của 5 nước ASEAN là 7%/năm. Như vậy, lãi suất cho vay danh nghĩa ở Việt Nam đứng ở thứ hạng khá cao so với thế giới và khu vực.
Nhưng lãi suất cho vay ròng của Việt Nam lại tương đối thấp

Tuy lãi suất cho vay danh nghĩa khá cao so với thế giới và khu vực, nhưng lãi suất cho vay ròng của Việt Nam (cột 2) lại ở mức rất thấp. Trong số 122 nước có số liệu lãi suất cho vay ròng năm 2012 thì Việt Nam đứng ở vị trí 96, với mức 2,3%/năm, so với mức trung bình 7% của thế giới, mức trung vị là 5,6%, và của khu vực là 4,7%. Ngay cả những nước mà ta cứ tưởng là có lãi suất cho vay thấp như Mỹ và Nhật nhờ chính sách lãi suất gần 0% của các Ngân hàng Trung ương, mà cũng đã có lãi suất cho vay ròng lên tới 1,5% và 2,3%, chưa kể đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam là Trung Quốc với 4,1%.
Như vậy, có thể nói lãi suất cho vay của Việt Nam hoàn toàn ở mức rất “chừng mực” so với thế giới và khu vực. Lý do ở đây chủ yếu là vì lạm phát của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của khu vực và thế giới, như nói dưới đây.

Nguyên nhân là do lạm phát của Việt Nam đứng ở mức cao
Trong số 202 nước có số liệu lạm phát năm 2012 (cột 3), Việt Nam có mức lạm phát đứng thứ 29 thế giới, ở mức 9,1%/năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình  của thế giới là 5,6%, mức trung vị là 3,7% và của ASEAN 5 là 3,3%. Lạm phát cao làm cho lãi suất cho vay ròng (điều chỉnh theo lạm phát) của Việt Nam trở nên thấp tương đối so với quốc tế và khu vực.

 Với lạm phát của Việt Nam cao như vậy thì đương nhiên không thể đòi hỏi lãi suất (huy động và cho vay) thấp được.
Và hệ thống ngân hàng Việt Nam không hưởng siêu chênh lệch lãi suất cho vay và huy động

Một lời cáo buộc nữa thường thấy của các chuyên gia đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là các ngân hàng đã và đang hưởng chênh lệch lãi suất cho vay và huy động quá lớn. Thực tế, nhìn vào cột 4 ở bảng trên có thể thấy NIM của Việt Nam tuy ở mức 3%/năm nhưng chỉ là mức rất khiêm tốn so với thế giới và khu vực (ở vị trí thấp hàng thứ 124 trên tổng số 140 nước). Mức trung bình của thế giới là 7%, mức trung vị là 6,1% và của ASEAN 5 là 3,9%. Như vậy, thực tế này cho thấy lãi suất cho vay của Việt Nam đang ở mức hoàn toàn “có chừng mực” so với lãi suất huy động, chứ không phải quá cao để mà cần phải kéo tụt lãi suất cho vay xuống hơn nữa nhằm ngăn không cho các ngân hàng hưởng siêu lợi nhuận từ “siêu chênh lệch” giữa lãi suất cho vay và huy động.
Lời buộc tội lãi suất cho vay cao làm giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đúng một nửa!

Như đã nói ở trên, ngay cả nhiều chuyên gia cho rằng vì lãi suất cho vay danh nghĩa ở Việt Nam cao hơn nhiều so với thế giới và khu vực nên làm tăng giá thành hàng hóa và dịch vụ ở Việt Nam, làm giảm tính cạnh tranh của chúng trên thị trường quốc tế.
Thực tế chỉ đúng thế NẾU tiền đồng không được phá giá tương ứng so với mức chênh lệch về lãi suất giữa Việt Nam và các nước khác. Hãy lấy một ví dụ đơn giản. Giả sử lãi suất đi vay của một doanh nghiệp Việt Nam nào đó cao hơn 5 điểm phần trăm so với một doanh nghiệp Trung Quốc làm đội chi phí tài chính lên, dẫn đến giá thành sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam này cao hơn của doanh nghiệp Trung Quốc 2%. Trên thị trường xuất khẩu, quả là doanh nghiệp Việt Nam sẽ kém cạnh tranh hơn khi có giá thành cao hơn 2% nếu mọi yếu tố khác, như tỷ giá tiền đồng và nhân dân tệ so với đô la Mỹ, không thay đổi. Nhưng giả sử tiền đồng lúc này bị phá giá 3%, trong khi tỷ giá nhân dân tệ/đô la Mỹ không thay đổi. Lúc đó, mặc dù doanh nghiệp Việt Nam đã phải chịu lãi suất đi vay bằng tiền đồng cao hơn doanh nghiệp Trung Quốc đi vay bằng nhân dân tệ, nhưng chi phí sản xuất quy đổi ra đô la Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam lại thấp hơn của doanh nghiệp Trung Quốc nhờ tiền đồng phá giá ở mức lớn hơn chênh lệch chi phí sản xuất do chênh lệch lãi suất ở thời điểm trước khi phá giá. Điều đó có nghĩa là hàng hóa sản xuất ở Việt Nam với lãi suất tiền đồng cao hơn các nước khác nhưng tính cạnh tranh về giá vẫn có thể không bị suy giảm, thậm chí còn được cải thiện nếu tiền đồng được phá giá ở mức độ đủ lớn.

Nếu Việt Nam không phá giá đủ lớn, như đã xảy ra trong năm 2012 theo bảng trên, với mức phá giá chỉ có 1,6% so với năm 2011 (cột 5), trong khi mức phá giá trung bình của thế giới là 5,2%, mức trung vị là 3,2%, và mức trung bình của ASEAN 5 là 1,3%. Trong bối cảnh lãi suất cho vay danh nghĩa của Việt Nam cao hơn các nước khác rất nhiều (cột 1), việc phá giá tiền đồng ở mức không đáng kể như thế đương nhiên làm suy giảm nghiêm trọng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Bài học về tính cạnh tranh bằng giá cả ở đây là lãi suất cao bao nhiêu không quan trọng bằng phải xem lạm phát đã ở mức độ nào trong tương quan với lãi suất, và tỷ giá có được điều chỉnh một cách tương ứng và phù hợp hay không.

Tóm lại, phân tích các số liệu về lãi suất, lạm phát và tỷ giá đã cho chúng ta thấy được những sự thật và cả những hiểu lầm đằng sau bức tranh lãi suất danh nghĩa tưởng như rất rõ ràng, hiển nhiên.

1 comment:

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).