Friday 15 August 2014

Có nên đưa tăng trưởng GDP thành chỉ tiêu pháp lệnh hay không? (Trả lời phỏng vấn báo Đại biểu Nhân dân, 16/8/2014)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=324343

08:46 | 16/08/2014
Những hoài nghi về tính chính xác của chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm trong nước) một lần nữa dấy lên sau hội nghị của ngành kế hoạch và đầu tư hôm 7.8. Trong bối cảnh này, chúng tôi trao đổi với TS PHAN MINH NGỌC, hiện đang làm việc tại Ngân hàng Sumitomo chi nhánh Singapore về việc: có nên đưa tăng trưởng GDP trở thành chỉ tiêu pháp lệnh hay không?
Nguồn: vietbao.vn

Nhiều biến số kinh tế không thuộc phạm vi kiểm soát được của Chính phủ
- Ông bình luận như thế nào về nghịch lý tồn tại lâu nay: tất cả các địa phương đều báo cáo tăng trưởng cao hơn mức trung bình của cả nước; từ đó mà đóng góp vào tăng trưởng GDP của 20% số tỉnh đã lớn hơn của cả nước.
- Số liệu GDP của các địa phương cộng lại không giống với số liệu GDP của cả nước là điều hiển nhiên vì Tổng cục Thống kê cho biết các địa phương thu thập thông tin, biên soạn chỉ tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) chứ không phải là chỉ tiêu GDP như áp dụng trên phạm vi cho cả nước. Theo giải thích mới đây của Tổng cục Thống kê, điểm tạo nên khác biệt giữa 2 chỉ số này là nguyên tắc thường trú, vốn khó được áp dụng để thu thập thông tin tính GRDP. Ngoài ra, cũng theo Tổng cục Thống kê, áp lực chạy theo mục tiêu KT - XH buộc các địa phương phải biến báo GRDP cũng là một trong những lý do cho sự sai khác trên.
 
Nếu đã hiểu bản chất rồi thì sẽ không thấy vấn đề trên là nghịch lý nữa. Nhưng lại cần phải nói thêm rằng 2 chỉ tiêu này do không có tính tương thích - tổng GRDP các địa phương không bằng GDP cả nước, cũng như xu hướng biến báo GRDP của các địa phương đã đặt ra vấn đề: có cần thiết phải duy trì việc thu thập và biên soạn chỉ tiêu GRDP nữa hay không?
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, do bệnh thành tích đã quá nặng mà không có cơ chế và năng lực phát hiện, xử lý nên tốt nhất là bỏ chỉ tiêu GRDP, hoặc để cho Tổng cục Thống kê tiến hành một cách thống nhất, trung lập, khách quan cho các địa phương.
 
- Vậy còn trong cách tính GDP cả nước hiện có vấn đề gì không, thưa Ông?
- Tổng cục Thống kê luôn khẳng định phương pháp tính GDP của họ là theo chuẩn mực quốc tế, kết quả tính toán đã được các tổ chức quốc tế công nhận để lấy đó làm lý do thuyết phục rằng số liệu GDP của cả nước do đơn vị này công bố là chính xác, chuẩn mực. Nhưng có điều không ai có thể kiểm tra chéo được chất lượng tiến hành thu thập thông tin và xử lý số liệu để biết được chất lượng thống kê ra sao. Người ta vẫn nghe đây đó việc các cán bộ thống kê điều tra mà ngồi ở nhà, giao các phiếu điều tra cho ai đó tự điền vào.
 
Hơn nữa, mặc dù cứ cho là Tổng cục Thống kê có quy trình và làm đúng quy trình, nhưng họ sẽ giải thích ra sao khi từ năm ngoái họ lại điều chỉnh tăng quy mô giá trị tăng thêm của hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà ở tự có của dân cư trên vào đầu năm 2013 đồng thời với việc áp dụng tính toán theo năm gốc 2010 và tính chuyển từ ngành kinh tế (VSIC) 1993 sang VSIC 2007? Tổng cục Thống kê nói rằng đã áp dụng thống nhất khái niệm, nội dung, phương pháp tính hệ thống tài khoản quốc gia 1993 của Liên Hiệp Quốc để biên soạn số liệu GDP nhưng vẫn phải thừa nhận rằng trong quá trình điều tra thu thập thông tin, xử lý, biên soạn và phân tích số liệu GDP từ phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng, họ nhận thấy hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà tự có tự ở của dân cư chưa được phản ánh đầy đủ trong GDP. Điều này có nghĩa là mặc dù đã làm đúng quy trình, nhưng từ trước đến năm 2012, có thể thấy, hóa ra Tổng cục Thống kê vẫn tính sai GDP!
 
- Tại các Kỳ họp cuối năm, Quốc hội cân nhắc và biểu quyết chỉ tiêu tăng trưởng GDP cho năm tới, hoặc cho giai đoạn 5 năm tiếp theo. Theo Ông, có nên đưa tăng trưởng GDP thành chỉ tiêu pháp lệnh như vậy hay không?
- Câu trả lời phụ thuộc vào việc chỉ tiêu GDP có thực sự là pháp lệnh không, Chính phủ có bị trừng phạt khi không thực hiện được chỉ tiêu này hay không?
 
Nếu câu trả lời là có thì theo tôi không nên coi chỉ tiêu GDP là chỉ tiêu pháp lệnh. Có nhiều biến số kinh tế không thuộc phạm vi kiểm soát, điều chỉnh được bởi Chính phủ. Bản thân việc lập ra mục tiêu tăng trưởng GDP của Quốc hội cũng đa phần là định tính nên sẽ là không công bằng lắm khi bắt buộc Chính phủ phải thực hiện được chỉ tiêu này bằng mọi giá, chưa kể những hậu quả xấu lên môi trường, lên bất ổn vĩ mô và xã hội một khi Chính phủ phải hoàn thành kế hoạch này.
 
Còn nếu câu trả lời là không thì tính pháp lệnh của chỉ tiêu này không còn quan trọng nữa. Và thực tế thường là khả năng này, khi Chính phủ luôn có lý do để giải trình, trình bày với Quốc hội để xin giảm chỉ tiêu tăng trưởng GDP mỗi khi có khả năng không hoàn thành, và Quốc hội thường sau một hồi nâng lên đặt xuống thì cũng nhất trí cao với đề xuất của Chính phủ cho giảm chỉ tiêu tăng trưởng. 
 
GDP không phản ánh được mặt trái của tăng trưởng
- GDP ở nước ta được coi là chỉ số đo lường kết quả kinh tế quan trọng nhất của địa phương cũng như cả nước. Các nước khác có quan niệm như vậy không, thưa Ông?
- Theo Tổng cục Thống kê, có một số nước cũng áp dụng tính GDP cho địa phương. Trong số các nước đó thì tôi biết Trung Quốc vẫn đang duy trì từ lâu việc tính GDP cho các địa phương, và có lẽ chỉ duy nhất Trung Quốc và Việt Nam coi trọng chỉ tiêu GDP địa phương, thậm chí lấy đó làm thước đo chính đánh giá mức độ thành công của các địa phương này, cũng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ và là cơ sở để đề bạt, thăng chức cho cán bộ lãnh đạo các địa phương đó.
 
Các nước khác, chỉ có một chỉ tiêu GDP cho cả nền kinh tế, cũng vẫn có xu hướng coi trọng tốc độ tăng trưởng GDP. Tăng trưởng GDP chậm lại, hoặc nghiêm trọng hơn, tăng trưởng âm trong quý nào đó thì lập tức chính quyền phải đau đầu họp bàn, tìm nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Thậm chí GDP trồi sụt sẽ là cơ sở để một đảng nào đó lên cầm quyền hoặc ra đi, và các thị trường tiền tệ tài chính chao đảo. Điều này chứng tỏ rằng hiện nay và trong thời gian sắp tới, chỉ tiêu GDP vẫn có sức chi phối rất lớn đến hoạch định chính sách của nhà cầm quyền và sự chú ý của xã hội.
 
- Có nghĩa GDP vẫn là một chỉ tiêu quan trọng, thưa Ông?
- Theo tôi, trong bối cảnh các nước chưa thống nhất, chưa tìm được một chỉ tiêu thay thế cho GDP để đánh giá hiệu quả mức độ thịnh vượng, sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thì GDP vẫn sẽ tồn tại và là một chỉ tiêu quan trọng hàng đầu cần xem xét trong hoạch định chính sách của Chính phủ. Nhưng tôi nhắc lại rằng chỉ tiêu GRDP như ở Việt Nam và Trung Quốc là không cần thiết, cần loại bỏ, ít nhất chừng nào chưa khắc phục được những lý do chính làm cho nó không chính xác như nói ở trên.
 
- Như vậy, việc có một thước đo GDP chính xác có ý nghĩa như thế nào?
- Nếu GDP được tính chính xác thì đương nhiên nó sẽ là thước đo tốt nhất (tính đến hiện tại) sự thịnh vượng và phát triển của một quốc gia theo thời gian. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng hiện nay có một số nước, một số tổ chức lên tiếng kêu gọi thế giới tìm kiếm và xây dựng một vài chỉ tiêu thay thế GDP, với những lý do như GDP không phản ánh được những mặt trái của câu chuyện tăng trưởng kinh tế như giãn cách giàu nghèo tăng lên, hủy hoại môi trường để chạy theo con số tăng trưởng GDP, sự không hài lòng, bất hạnh của người dân trong một xã hội chạy theo chủ nghĩa vật chất v.v...
 
Ngay ở Trung Quốc, gần đây đã có một số địa phương, đặc biệt những nơi có tỷ lệ người nghèo khổ lớn và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chuyển sang dùng những chỉ tiêu thay thế cho GDP địa phương, như chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường, lấy đó làm cơ sở đánh giá cán bộ lãnh đạo địa phương. Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng là điều nên tham khảo cho một số địa phương của Việt Nam.
 
- Xin cảm ơn Ông!
Hồng Loan thực hiện

15 comments:

  1. Câu hỏi: "Có nên đưa tăng trưởng GDP thành chỉ tiêu pháp lệnh như vậy hay không?". Câu trả lời của bác dường như chỉ là một thuật ngụy biện với phương án trung dung, an toàn, hoàn toàn không phải là một nhận định có chính kiến. Bác hỏi: "Chính phủ có bị trừng phạt khi không thực hiện được chỉ tiêu này hay không?", rồi tự trả lời có và không. Có cũng vậy mà không cũng vậy. Nều quốc hội xem đây là một trong những KPI để đánh giá CP, kèm theo những điều kiện khác (KPI nào cũng có điều kiện cả, không KPI nào được thực hiện bằng mọi giá, mọi cách!) thì đâu thể nói là vì sợ ảnh hưởng đến môi trường hay bất ổn kinh tế vĩ mô. Phần trả lời này của bác hơi lạ, khg biết có bị "mớm" lời chăng mà không thấy bóng dáng Phan Minh Ngọc trog đó! Buồn!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ không hiểu rõ ý của đồng chí lắm, nhưng tớ khoái kiểu chê này! Thanks đồng chí cái đã.

      Khi viết cái này, tớ đương nhiên là chẳng bị ai mớm lời cả, chỉ trả lời sao cho thấy hợp nhất thôi. Có thể tớ chỉ muốn nói rằng ở VN thì kiểu gì cũng không thành vấn đề, chuyện đặt chỉ tiêu tăng trưởng GDP thành chỉ tiêu pháp lệnh hay không ấy. Nên suy ra câu trả lời này là chả cần bàn đến chuyện pháp lệnh hay không này làm gì cho thừa, đại loại vậy.

      Delete
  2. Vậy theo bác thì lấy cái gì làm thước đo để đánh giá một CP? Tôi thì tin rằng dù có nhiều thước đo (KPI) chăng nữa thì GDP vẫn là cái "key" nhất trong những cái "key" kia, và đương nhiên cũng chiếm tỉ trọng cao nhất.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Vấn đề là tớ chưa thấy ở đâu tăng trưởng là pháp lệnh cả, hình như cả ở TQ (hiện nay), trừ Bắc Hàn và Cu Ba thì tớ không rõ. Đúng là đặt ra và hoàn thành kế hoạch tăng trưởng vẫn là điều đặc biệt quan trọng, nhưng vì có nhiều yếu tố không thuộc kiểm soát của chính phủ (chẳng hạn tác động từ bên ngoài, như vụ giàn khoan TQ, hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới) nên rõ ràng không thể ép và trừng phạt chính phủ do đã không hoàn thành kế hoạch tăng trưởng, dù kế hoạch này có thể đã được đặt thành pháp lệnh. Những hoàn cảnh này thì chính phủ rõ ràng sẽ nhận được sự thông cảm của dân chúng và các đảng đối lập (nếu có).

      Delete
    2. Chính xác, những trường hợp bất thường, bất khả kháng như chiến tranh, đe dọa chiến tranh, thiên tai, bạo động... thì sẽ phải xem xét lại GDP. Nhưng nếu bình thường mà chỉ số GDP quá kém thì cũng cần phải đặt câu hỏi, chất vấn, yêu cầu giải trình... (chứ không phải trừng phạt), xem đó là KPI để đánh giá (chứ không xem là pháp lệnh). Cách dùng từ pháp lệnh có lẽ không bao hàm ý nghĩa là buộc chính phủ phải đạt chỉ tiêu này bằng mọi giá, nhưng bao hàm ý nghĩa là CP sẽ được quốc hội đánh giá performance thông qua chỉ tiêu này (và một số chỉ tiêu khác nữa). Như vậy sẽ tốt cho cả quốc hội lẫn chính phủ vì có cơ sở để hai bên cùng theo dõi và cùng đánh giá về sau (hơn là đánh giá định tính chung chung). Và khi CP vượt chỉ tiêu GDP (trong khi vẫn thỏa mãn những yêu cầu khác, chỉ tiêu khác) thì phải được khen chứ bác (đâu chỉ có chê thôi)!

      Delete
    3. Tớ thì nghĩ đơn giản rằng chính phủ nào dù có hay không bị sức ép của Quốc hội hay của đảng đối lập đều muốn ghi dấu ấn thành tích của mình qua tăng trưởng, thịnh vượng. Nên tự nhiên thì chính phủ cũng đã và sẽ cố gắng hết sức mình (kể cả VN). Và khi không đạt được mục tiêu, trong bối cảnh không có những biến động đặc biệt, thì nó chỉ để lại sự mất điểm trong mắt cử tri và chính phủ có thể sẽ phải ra đi (trừ khi đảng cử). Nên chuyện đánh giá performance theo kiểu như đồng chí nghĩ có lẽ là không cần thiết.

      Delete
    4. Chỗ này bác ai rồi (sorry). Đồng ý là CP nào cũng muốn làm tốt cả, nhưng vấn đề là quốc hội phải quyết định nên ưu tiên tốt cái gì và chấp nhận chưa tốt cái gì (vì có quá nhiều những thứ muốn làm tốt). Cũng như một CEO sẽ muốn làm tốt cho cty, nhưng chính HĐQT phải quyết định CEO cần ưu tiên làm tốt cái gì trước hết cho cty trong mọt giai đoạn nào đó. Ví dụ năm nay thì ưu tiên cho thị phần, năm sau thì ưu tiên cho lợi nhuận...Chính vì vậy nên mới cần có KPI (thay đổi theo từng năm) để đánh giá, chứ không phài cứ nói tốt chung chung. Vì nếu cứ nói tốt chung chung thì mỗi bên (bên đánh giá và bên được đánh giá) sẽ có quan điểm khác nhau. Ví dụ quốc hội thì ưu tiên cho ổn định kt vĩ mô (và chấp nhận hy sinh tăng trưởng GDP), trong khi CP lại ưu tiên tăng trưởng GDP và chấp nhận những bất ổn ở mức độ nào đó trong kinh tế vĩ mô. Như vậy, khi đánh giá có thể gây ra tranh cãi vì ai cũng nói về cái tốt mình cần, không thống nhất quan điểm. Theo tôi, cách trả lời phỏng vấn của bác nên thể hiện quan điểm rõ hơn, có chính kiến rõ ràng hơn (vì đây là vấn đề kinh tế mà) thay vì trung dung quá, cuối cùng không hiểu là nên như thế nào (vì thế nào cũng OK cả).

      Delete
  3. Ok, tớ đồng ý là đã không nói rõ ràng quan điểm ở chỗ này, dễ gây hiểu lầm. Tks đồng chí vì đã góp ý thêm lần nữa.

    ReplyDelete
  4. Tks bác đã lắng nghe!

    ReplyDelete
  5. Anh Ngọc mà nói thẳng quan điểm ra biết đâu bài chẳng "đi" được. Người đọc, ai cũng thấy ở VN, Chính phủ chưa khi nào bị trừng phạt vì không đạt chỉ tiêu GDP, và ngay cả QH cũng định tính và xuê xoa với nó. Vậy nên, với hai giả định của anh, người ta cũng đã thấy anh cho rằng việc lâu nay GDP được là một chỉ tiêu pháp lệnh đã thật sự vô nghĩa rồi.
    P/s: @A Ngọc: có lẽ thầy bói nghiệp dư nói đúng.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Chết, thế thì khéo tớ phải rục rịch về quê mẹ thôi!

      Delete
    2. Bác gì anynomus hơi quan trọng hóa vấn đề. Quan điểm GDP là một chỉ tiêu quan trọng của một CP để phấn đấu (cùng với những chỉ tiêu khác) là điều bình thường. Bác Ngọc hoàn toàn có thể né tránh từ "pháp lệnh", nhưng vẫn có thể khẳng định được việc cần xem GDP là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá. Nếu không vậy, nhiều năm GDP tăng trưởng ngoạn mục, chính phủ cũng chẳng có lấy một lời khen thì sao? Sao cứ đặt nặng vấn đề trừng phạt/ không trừng phạt để né tránh chỉ tiêu này? Và nếu như vì lý do khách quan mà CP không đạt GDP thì cũng đâu phải lỗi ở CP mà nói chuyện trừng phạt?

      Delete
    3. Mình thấy anh Ngọc có khẳng định GDP vẫn là một chỉ tiêu quan trọng, ở phần cuối bài.

      Hiện chỉ tiêu GDP được ghi trong Nghị quyết của QH, nên nó có tính pháp lệnh. Vì thế, khi Chính phủ không đạt chỉ tiêu đó thì coi như Chính phủ không hoàn thành nhiệm vụ Quốc hội đã giao và sẽ phải chịu trách nhiệm hoặc bị xử lý bằng hình thức nào đó - bất kể việc không đạt là bởi lý do khách quan hay chủ quan.

      Tính chất pháp lệnh của GDP là như vậy. Nhưng cũng chính như bạn và anh Ngọc đều nói, có những việc Chính phủ không thể kiểm soát được, và Chính phủ không có lỗi về điều đó, vậy nên, không nên duy trì tính chất pháp lệnh của GDP nữa. Nghĩa là, Quốc hội đừng đặt chỉ tiêu này và ghi nó vào Nghị quyết KT - XH hàng năm nữa.

      Delete
    4. Có lẽ đồng chí Anonymous đầu tiên quen với văn phong "ngô ra ngô, khoai ra khoai" của tớ rồi nên thất vọng vì cách nói lấp lửng, mập mờ trong bài này. Tớ cũng công nhận là viết thế này thì không rõ nghĩa, dễ gây cảm tưởng như đồng chí đó nhận định.

      Nói chung là tớ sẽ cố gắng giữ văn phong của mình, nhưng cũng như đồng chí Anonymous khác nói, nhiều khi nói "ngô, khoai" quá có khi lại không "đi" được. Nói gì thì nói, trong bài này tớ viết không "ngô, khoai" một cách vô thức, chứ không phải là sợ không "đi" được.

      Delete
    5. Một số bài viết gần đây của bác thường lấp lửng, không rõ ngô khoai, nên đọc lên ko thấy sướng. Chuyện "đi" hay không quan trọng gì đâu bác ơi. "Đi" mà ko biết đi mô (vì lấp lửng) mới đáng ngại. Thà không "đi" mà còn biết rõ là bác đang đứng ở đó (với lập trường đó) còn hơn bác đi lanh quanh thì thêm càng mỏi mệt cho người đọc (sorry nhạc sĩ TCS)....

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).