Saturday, 23 August 2014

Nỗi hoài nghi về GDP ở Việt Nam (Bài đăng trên Tuổi trẻ cuối tuần, 22/8, bản gốc)

Trong năm nay nhiều lần Tổng cục Thống kê (TCTK) đã phải đăng đàn giải thích tính khả tín của chỉ số GDP mà họ tính toán và công bố hàng quý, hàng năm trước nghi vấn của dư luận về chỉ số này.
 
Mới đây nhất, TS Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng TCTK cũng một lần nữa phủ nhận nỗi hoài nghi về chỉ tiêu GDP khi cho rằng TCTK đã áp dụng các khái niệm, nguyên tắc, nguồn thông tin và phương pháp tính GDP theo đúng quy định trong hệ thống tài khoản quốc gia của thống kê Liên hợp quốc. Ông cũng cho biết thêm rằng trước đây những năm 90, hàng năm Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đến Việt Nam kiểm tra nguồn thông tin và phương pháp tính chỉ tiêu GDP do TCTK thực hiện và các tổ chức này đều khẳng định phương pháp tính của thống kê Việt Nam theo đúng phương pháp của thống kê Liên hợp quốc. Hiện nay họ không đặt vấn đề kiểm tra đối với thống kê Việt Nam mà hoàn toàn tin tưởng, sử dụng số liệu GDP do TCTK tính toán và công bố.
Khách quan mà nói, lý giải như trên vẫn sẽ là chưa đủ để thuyết phục dư luận. Việc có phương pháp và quy trình đúng, và “làm đúng quy trình” cũng không luôn đảm bảo cho kết quả đúng, như kỳ vọng! Có lẽ dư luận hoài nghi về tính chính xác trong tính toán GDP của TCTK không phải xuất phát chủ yếu từ sự hoài nghi vào phương pháp và quy trình tính toán mà TCTK đang sử dụng hiện nay. Họ hoài nghi về sự “bẻ cong” số liệu vì một số lý do khách quan hoặc chủ quan nào đó.
Minh họa dễ thấy nhất về chất lượng tính toán GDP là ở con số GDP do các tỉnh tự tính toán, mà TCKT gọi là tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). Rất thường xuyên là nếu cộng dồn GRDP của tất cả các địa phương trong cả nước thì con số GDP gộp này sẽ lớn hơn nhiều con số GDP cả nước do TCTK công bố. TCTK đã phải thừa nhận tình trạng này, và quy cho rằng do bệnh thành tích của các địa phương, hoặc do khó khăn khi áp dụng nguyên tắc “đơn vị cơ sở thường trú”, hoặc do vấn đề về số liệu ở cấp doanh nghiệp.
Điều đáng nói là ông Lâm cũng khẳng định rằng các địa phương đã áp dụng thống nhất cách tính chỉ tiêu GRDP theo hướng dẫn của TCTK. Nhưng thực tế trên đã cho thấy dù phương pháp và quy trình có đúng mấy thì vẫn kết quả vẫn có thể sai như thường!        
Bởi vậy, suy ngược ra, ngay bản thân con số GDP cả nước do TCTK công bố cũng vẫn có khả năng không chính xác, không bởi vì phương pháp và quy trình sai, mà có thể bởi chất lượng công tác thu thập và xử lý dữ liệu ngay từ địa phương. Ông Lâm cho biết rằng hiện nay, TCTK trực tiếp tính chỉ tiêu GDP của toàn bộ nền kinh tế chứ không dựa trên cơ sở cộng đơn thuần số liệu GRDP của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Như vậy điều này cũng có nghĩa là trước đây TCTK rất có thể đã tính GDP cả nước dựa trên GRDP vốn là cái đã bị bóp méo. Bởi thế, suy diễn về khả năng không chính xác của GDP do TCTK tính toán không phải là không có cơ sở.
Một lý do nữa càng làm tăng tính hoài nghi vào chất lượng tính toán GDP của TCTK đến từ việc TCTK hồi năm ngoái điều chỉnh tăng quy mô giá trị tăng thêm của hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà ở tự có của dân cư. Câu hỏi đặt ra là nếu đúng như TCTK nói, rằng đã áp dụng thống nhất khái niệm, nội dung, phương pháp tính hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) 1993 của Liên hiệp quốc để biên soạn số liệu tổng sản phẩm trong nước (GDP), thì tại sao TCTK lại phải “điều chỉnh” như vậy?
TCTK lúc đó có lý giải rằng trong quá trình điều tra thu thập thông tin, xử lý, biên soạn và phân tích số liệu GDP từ phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng, họ nhận thấy hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà tự có tự ở của dân cư chưa được phản ánh đầy đủ trong GDP. Điều này có nghĩa là mặc dù đã có quy trình và “làm đúng quy trình” nhưng từ trước đến năm 2012 hóa ra TCTK vẫn tính sai GDP!
Và cuối cùng, một lần nữa TCTK gián tiếp thừa nhận vấn đề chất lượng tính toán GDP của mình khi trả lời câu hỏi làm gì để nâng cao chất lượng các chỉ tiêu thống kê. TCTK cho biết sẽ nâng cao chất lượng thu thập, xử lý, tổng hợp số liệu thống kê; “đề nghị” các đơn vị sản xuất kinh doanh, các đơn vị hành chính sự nghiệp và hộ dân cư cung cấp thông tin đúng thực trạng sản xuất kinh doanh, đảm bảo thời gian; kêu gọi các bộ ngành cần quan tâm hơn nữa đến chia sẻ thông tin cho TCTK; tiếp tục hoàn thiện bộ tổ chức bộ máy thống kê từ Trung ương xuống địa phương; nâng cao năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ công chức làm công tác thống kê; và đặc biệt, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng trong từng công đoạn của hoạt động thống kê v.v...
Với một loạt đầu công việc cần phải làm như thế này thì có thể suy ra hiện đang có rất nhiều vấn đề trong công tác thống kê nói chung và tính toán GDP nói riêng!

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).