Friday 26 December 2014

Ăn mừng 2014 và chờ đợi 2015 sẽ tốt đẹp hơn nếu việc ổn định vĩ mô tiếp tục được đặt lên hàng đầu (Trả lời phỏng vấn Đại biểu Nhân dân, 27/12, tiêu đề do báo đặt)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=337024

08:49 | 27/12/2014
Nhìn lại năm 2014, TS PHAN MINH NGỌC, CHUYÊN GIA CỦA NGÂN HÀNG SUMITOMO CHI NHÁNH SINGAPORE cho rằng chúng ta có thể ăn mừng một năm khá thành công trên nhiều mặt. Năm tới sẽ còn tốt đẹp hơn khi tiền đề tăng trưởng và phát triển hơn nữa đã được tạo dựng, trong khi nền kinh tế thế giới có thể tăng trưởng khả quan hơn nhờ giá dầu thấp và các nước phương Tây đã qua đáy của khủng hoảng.
 
Chúng ta có thể ăn mừng
- Cảm nhận của TS về diễn biến của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2014?
- Tôi thấy năm 2014 là một năm có tăng trưởng kinh tế tương đối tốt trong sự ổn định cũng tương đối về mặt vĩ mô. Có nghĩa là, nếu tình hình đúng như đã phản ánh qua các con số thống kê thì chúng ta có thể ăn mừng một năm khá thành công trên nhiều mặt, tất nhiên là so với mấy năm gần đây, chứ không phải so với thời hoàng kim ở thập kỷ trước.
- Theo TS, đâu là điểm đáng để ăn mừng nhất?
- Đó là chúng ta đã khá kiên trì với việc duy trì ổn định vĩ mô mà vẫn đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối tốt, tuy rằng đã có không ít áp lực do có nhiều tiếng nói, tại nhiều thời điểm kêu gọi một cách vô lý Chính phủ nới cái này, kích cái kia, cứu cái nọ v.v...
Chính phủ thiếu một đội ngũ chuyên gia tư vấn giỏi
- Còn những điểm chưa sáng trong bức tranh kinh tế?
- Điểm tối là chúng ta đã nói nhiều, bàn nhiều quá trong nhiều vấn đề lớn của nền kinh tế mà thực hiện chưa được bao nhiêu, ví dụ, tái cơ cấu, cổ phần hóa.
- Vậy sự chậm trễ này để lại những hệ quả gì?
- Dễ thấy nhất là chuyện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, với mục tiêu cổ phần hóa 432 doanh nghiệp trong 2 năm 2014 - 2015, trong khi số doanh nghiệp đã được cổ phần hóa cho đến thời điểm này (hết năm 2014) mới chỉ là một phần nhỏ của kế hoạch này. Cổ phần hóa chậm trễ đương nhiên đồng nghĩa với việc nhà nước phải tiếp tục nặng nợ với nhiều trong số này, vốn đang làm ăn bê bết, thua lỗ.
 
Rồi chuyện tái cơ cấu hệ thống tài chính, ngân hàng. Kế hoạch đặt ra sẽ sáp nhập, hợp nhất hàng chục ngân hàng nhưng rồi cho đến nay cũng chỉ có một vài trường hợp đã được tái cơ cấu. Những ngân hàng thuộc diện phải tái cơ cấu mà vẫn chưa thực hiện được sẽ tiếp tục là gánh nặng, là nguồn gây bất ổn và rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
- Theo TS, làm sao để tiến độ tái cơ cấu nhanh hơn, cần thêm ý chí hay những điều kiện khác?
- Có lẽ là do ý chí, từ cấp cao nhất. Bên ngoài thì có thể nghe, có thể thấy những quyết tâm với quyết liệt, nhưng bên trong có thể vẫn có những mắc mớ, xung đột về quyền lợi nào đó mà người ta đã không dám làm đến nơi đến chốn như đã nói.
- Nhìn lại điều hành kinh tế năm 2014, bài học có thể được rút ra là gì, thưa TS?
- Cái tôi thấy thiếu nhất ở Việt Nam hiện nay là một đội ngũ chuyên gia tư vấn giỏi cho Chính phủ, những nhà hoạch định chính sách có đầu óc kỹ trị. Cứ phân tích các chính sách đã và đang ban hành, các ý kiến trả lời công chúng của các cơ quan chủ quản, các kiến nghị, tham mưu và đề xuất của đội ngũ những chuyên gia quen thuộc hiện nay thì có thể thấy sự bất cập của những chính sách, kiến nghị, tham mưu và đề xuất này, xuất phát từ sự mỏng về trình độ và thiếu về số lượng. Với tình trạng như vậy, không ngạc nhiên khi thấy nhiều chính sách ban hành không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, nhiều ý kiến tư vấn, kiến nghị nếu được thực thi sẽ chỉ gây rối loạn. Ơn trời là mọi việc rồi cũng trôi qua trong năm 2014 và bởi vậy điều mà tôi muốn rút ra ở đây là cần phải phát triển yếu tố con người, nhấn mạnh đến chữ giỏi, về năng lực, về trình độ.
Năm 2015 sẽ tốt đẹp hơn... 
- Triển vọng kinh tế năm tới, chúng ta nên có cái nhìn lạc quan hay bi quan? 
- Trên cơ sở những yếu tố hiện có của bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước, năm 2015 sẽ là năm tốt đẹp hơn năm nay, khi tiền đề tăng trưởng và phát triển hơn nữa đã được tạo dựng một phần trong năm nay, ví dụ như ổn định vĩ mô, trong khi nền kinh tế thế giới có thể tăng trưởng khả quan hơn nhờ giá dầu thấp và các nước phương Tây đã qua đáy của khủng hoảng.
- Nhiều người hy vọng Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua có thể tạo một làn sóng khởi nghiệp mới trong cộng đồng doanh nghiệp vào năm tới, TS nghĩ sao?
- Tôi nghĩ là dù có hay không những luật sửa đổi này thì tình hình khởi nghiệp kinh doanh cũng không vì thế mà tăng lên hay giảm đi mạnh ở Việt Nam. Cái quan trọng là người ta có tìm thấy cơ hội, và điều kiện để khởi nghiệp hay không. Luật dù tốt, phù hợp đến mấy thì cũng chỉ là hỗ trợ cho quá trình khởi nghiệp này thuận lợi hơn mà thôi, chứ không phải là điều kiện tiên quyết. Những năm trước đây, dù các luật vẫn còn mang tính trói buộc nặng nề hơn, nhưng người ta vẫn đua nhau mở doanh nghiệp, là chứng tỏ điều này.
- Qua những chuyến công tác tại Việt Nam trong năm nay, TS cảm nhận như thế nào về sự chuẩn bị của doanh nghiệp Việt Nam cho các sự kiện hội nhập của năm 2015, như việc thành lập Cộng đồng Kinh tế Asean hay một số hiệp định thương mại giữa Việt Nam và các nước sẽ được hoàn tất?
- Chắc có một phần lớn doanh nghiệp cũng ý thức được điều gì sẽ xảy ra trong thời gian tới. Nhưng tôi không nghĩ rằng họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho những sự kiện này theo cái nghĩa là mọi thứ đã được bày ra sẵn sàng đâu vào đấy, chỉ đợi thời điểm các hiệp định này có hiệu lực là họ sẽ bấm nút khởi động, triển khai các dự định, dự án của mình. Đơn giản là dù có muốn thì cũng không thể làm gì được nhiều, vì mọi việc đều ở thời tương lai, đã rõ hình thù cơ hội hay thách thức ra đầu cua tai nheo thế nào đâu mà chuẩn bị, đối phó với lại nắm bắt? Hành động thông thường ở đây là nước đến đâu thì nhảy đến đó, và tôi cho rằng thế là hợp lý, hợp nhẽ.
- Vậy còn những doanh nghiệp nước ngoài TS có dịp tiếp xúc, họ nhìn nhận cơ hội làm ăn như thế nào ở Việt Nam trong năm tới?  
- Câu trả lời tùy thuộc vào từng ngành nghề khác nhau. Với những ngành ví dụ như thép, khoáng sản thì triển vọng không mấy lạc quan, xuất phát từ nhu cầu thấp hoặc dư cung, hay từ sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Với những ngành có triển vọng xuất khẩu tốt như điện tử, may mặc, da giày thì sự mở rộng năng lực sản xuất để đón nhận cơ hội mới là chiều hướng chung.
... nếu ổn định vĩ mô tiếp tục được đặt lên hàng đầu
- Theo TS, Chính phủ nên theo đuổi một chính sách kinh tế như thế nào cho năm tới, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu tiếp tục lao dốc?
- Dường như mọi người đều nhìn nhận hiện tượng giá dầu lao dốc là điều gì đó ghê gớm, có hại cho nền kinh tế thế giới và cho Việt Nam thì phải? Với quan điểm ngược lại, tôi cho rằng chỉ cần Chính phủ theo đuổi một chính sách tăng trưởng và phát triển cẩn trọng, luôn đặt ổn định vĩ mô lên hàng đầu thì tăng trưởng kinh tế ở mức ít nhất như năm 2014 là điều trong tầm tay.
- Do đâu TS chắc chắn như vậy?
- Có cái kỳ lạ ở Việt Nam là một mặt thì người ta mong mỏi giá cả hạ đi để người tiêu dùng đỡ phải đau đầu hàng ngày với chi phí cho cuộc sống cứ tăng lên mãi. Nhưng mặt khác, khi giá cả tăng chậm lại, hoặc thực sự giảm đi thì người ta lại chuyển sang lo lắng, vì cho rằng đó là biểu hiện của tổng cầu yếu, thiểu phát, và lại mong có lạm phát thì mới yên tâm! Tôi thật chẳng còn hiểu người ta muốn gì, nghĩ gì nữa.
 
Trở lại với giá dầu lao dốc, với tôi là điều rất tốt cho toàn bộ nền kinh tế vì chi phí cho mọi hoạt động kinh tế, mọi sản phẩm và dịch vụ đều giảm đi, ít hay nhiều, tương ứng với giá dầu giảm. Điều này đến lượt nó sẽ lại kích thích sức mua, sức tiêu dùng, nhờ đó kích hoạt hơn nữa mọi hoạt động kinh tế và, do đó, tăng trưởng kinh tế.
 
Trong bối cảnh thuận lợi hơn như vậy, nếu môi trường kinh doanh tích cực được bảo đảm bằng những chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, bám sát theo mục tiêu ổn định vĩ mô thì chẳng có lý do gì mà nền kinh tế lại không đạt kết quả khả quan hơn năm 2014, trừ khi có những cú sốc lớn đến từ nội tại hay bên ngoài.
- Nếu có gì cần phải lưu ý cho nền kinh tế trong năm tới, thì theo TS là gì?
- Đó là sự tự mãn, chủ quan, nhanh chóng thay đổi trong chính sách điều hành kinh tế. Trên hết, cần nhận thức rằng các thành quả đạt được đã không hề dễ dàng và nhanh chóng đạt được, nhưng sẽ nhanh chóng tiêu tan khi các chính sách không có tính nhất quán, chạy theo những mục tiêu ngắn hạn và mang tính thời tiết.
- Xin cám ơn TS!
Hồng Loan thực hiện

3 comments:

  1. Bài phỏng vấn của bác có bị "nắn" lại không, sao toàn "mỹ từ" không à, tuy hàm ý thì phê phán Chính phủ, các chính sách,...? Em nghe thấy ghê ghê..., không thấy phê!!!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ "tự nắn" thôi, để cho phù hợp với yêu cầu của báo. Nhưng thẳng thắn, thành thật mà nói thì tớ viết trung thực như tớ nghĩ, tuy từ ngữ có thể hoa mĩ một chút cho phù hợp với mood và thời điểm của báo này.

      Delete
    2. Thì ra vậy, dù sao bài viết của bác cũng đáng đọc lắm! Thanks bác nhiều!

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).