Friday 12 January 2018

Chưa rõ mô hình, sao thành lập? (Bài đăng trên TBKTSG, 12/1/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/267621/Chua-ro-mo-hinh-sao-thanh-lap.html

Bằng việc cử người giữ chức tại Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước (sau đây gọi tắt là Ủy ban), các cơ quan có thẩm quyền đang tiến gần hơn mục tiêu thành lập một “siêu ủy ban” quản lý vốn Nhà nước tại Việt Nam trong năm 2018, theo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 12/2017 về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Tuy nhiên, điều rất đáng bàn ở đây là Ủy ban này được quyết định thành lập khi chưa định hình cụ thể mô hình hoạt động của nó, hoặc là theo mô hình của Quỹ Đầu tư Temasek (Singapore), hoặc mô hình của Ủy ban Giám sát và Quản lý tài sản Nhà nước (SASAC, Trung Quốc), hoặc một mô hình nào khác (1).

Trừ khi nhà chức trách đã có sẵn một kế hoạc hoạt động cụ thể trên bàn nghị sự nhưng không công bố, sự thành lập Ủy ban khi chưa rõ mô hình hoạt động như thế này cho thấy tâm lý sốt ruột, chạy theo tiến độ, hoàn thành các mục tiêu trên giấy mà không mấy bận tâm đến hiệu quả thực tế của Ủy ban, chưa nói đến việc thành lập nóng vội như vậy sẽ tạo thêm tổn phí cho xã hội một cách không cần thiết.


Điểm đáng bàn khác là dường như các cơ quan thiết kế, tham mưu thành lập Ủy ban đã không tiếp thu, xem xét thấu đáo các ý kiến đóng góp xây dựng và phản biện từ phía công luận để vận dụng vào chương trình xây dựng Ủy ban. Điều này được thể hiện ở khía cạnh là những gì công luận được biết cho đến thời điểm này liên quan đến “hình hài”, chức năng và sứ mệnh của Ủy ban vẫn chỉ là dự thảo thành lập Ủy ban do Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ trước đây và đã nhận không ít phản biện trái chiều từ công luận. Bởi vậy, việc thành lập Ủy ban trong bối cảnh còn đang “lùng nhùng” như vậy đã tạo ra cảm nhận hay xuất phát từ luồng ý kiến là Ủy ban có thể thành công hay thất bại nhưng tinh thần là cứ phải thành lập trước đã, “cứ đi sẽ thấy đường”, vừa làm vừa sửa (sai).
Quay trở lại với hai mô hình tiêu biểu làm hình mẫu tham khảo cho Ủy ban là Temasek và SASAC. Với mô hình Temasek, như người viết đã phân tích trước đây (xem bài “Ủy ban không phải là lời giải phù hợp” trên TBKTSG Online http://www.thesaigontimes.vn/149048/Uy-ban-khong-phai-la-loi-giai-phu-hop.html), Việt Nam không có đủ điều kiện để thực hiện và mô hình này cũng không tương thích với Việt Nam. Cụ thể hơn, áp dụng mô hình này cần một môi trường văn hóa quản trị minh bạch; hoàn toàn độc lập với các can thiệp chính trị; có phương hướng hoạt động rõ ràng (hoạt động thuần túy trên góc độ thương mại, theo đuổi lợi nhuận và tạo giá trị gia tăng tối đa cho các cổ đông) mà không “kiêm nhiệm” các sứ mệnh khác như tái cơ cấu, thoái vốn, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN; nhân sự là những nhà quản lý doanh nghiệp chuyên nghiệp chứ không phải các công chức bàn giấy từ các bộ chuyển sang…
Còn với mô hình SASAC, không rõ  những người thai nghén ra Ủy ban đã/sẽ tham khảo mô hình SASAC ở khía cạnh nào và tại thời điểm nào vì bản thân SASAC cũng đã và đang trải qua nhiều lần thay đổi, lột xác, được cải cách liên tục suốt từ lúc ra đời vào năm 2003 để theo kịp thực tiễn thay đổi nhanh chóng ở Trung Quốc, mặc dù ban đầu SASAC được thành lập cũng là dựa trên mô hình Temasek (2). Trên hết, bản thân SASAC là một cơ quan hoạch định chính sách về DNNN, có chức năng và quyền hạn cải cách DNNN (như bổ nhiệm nhân sự chủ chốt DNNN, phê chuẩn kế hoạch sáp nhập hoặc bán tài sản DNNN, soạn thảo luật liên quan đến DNNN…) và trực thuộc Ủy ban Nhà nước của chính quyền Trung Quốc (tức là có vị thế tương đương với các bộ), chứ không chỉ đơn thuần là một cơ quan thừa hành chỉ đạo của các bộ và cơ quan ngang bộ như ở Việt Nam, nếu theo đúng dự thảo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc thành lập Ủy ban quản lý vốn Nhà nước.
Ngoài ra, có một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô hình SASAC cũng chẳng phải là một mô hình ưu việt vì các DNNN được Ủy ban này quản lý vẫn có kết quả hoạt động kém cỏi so với các công ty được Temasek quản lý (2). Lý do là vì SASAC quản lý các DNNN mà không thực hiện quyền của chủ sở hữu trong việc giám sát hoạt động của DNNN dưới sự quản lý của nó như Temasek trực tiếp thực hiện với các doanh nghiệp mà tổ chức này quản lý. Ví dụ, SASAC sở hữu và quản lý 100% vốn của tập đoàn China Hi-Tech Group Corporation. Đến lượt nó, tập đoàn này lại sở hữu và quản lý những doanh nghiệp như China Garments Co. Ltd, CHTC Helon Co. Ltd… Theo cơ cấu này, mặc dù SASAC là chủ sở hữu cuối cùng (đại diện Nhà nước) của các doanh nghiệp này nhưng nó chỉ giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp gián tiếp thông qua tập đoàn China Hi-Tech.
Thực tế này dẫn đến hàm ý chính sách là việc tập trung các DNNN vào một mối, dưới sự quản lý của SASAC ở Trung Quốc (hay Ủy ban ở Việt Nam) không nhất thiết đến sự cải thiện đáng kể về chất lượng hoạt động của DNNN. Điều cần thiết là SASAC cần được cải cách để biến thành một nhà đầu tư tích cực và chủ động trực tiếp thực hiện chức năng giám sát của chủ sở hữu của nó. Hàm ý chính sách này lại dẫn đến hàm ý chính sách khác cho Việt Nam là nếu Ủy ban thực hiện chức năng quản lý, giám sát vốn Nhà nước thông qua các tổ chức trung gian như SCCI (theo dự thảo thì thuộc sự quản lý của Ủy ban) thì chất lượng quản lý giám sát hoạt động của DNNN sẽ bị suy giảm.
Tóm lại, trong lúc chưa có một mô hình tham khảo nào khác ngoài Temasek và SASAC, và trong bối cảnh hai mô hình này hoặc không thể áp dụng được ở Việt Nam hoặc bản thân chúng (SASAC) vẫn còn phải được cải cách, thay đổi cho phù hợp với thực tiễn, thì việc thành lập Ủy ban ở Việt Nam sẽ chỉ có tác dụng rất hạn chế trong, thậm chí còn làm rối thêm việc quản lý vốn Nhà nước.

(2)    https://bschool.nus.edu.sg/Portals/0/docs/CGIO/soe-china-research-report-2016.pdf

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).