Saturday 21 July 2018

Tỷ giá đang phản ánh đúng điều kiện thị trường (Bài đăng trên TBKTSG, 21/7/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/td/275456/ty-gia-dang-phan-anh-dung-dieu-kien-thi-truong-.html


Tỷ giá tiền đồng/USD đã biến động mạnh theo chiều hướng tăng cả ở trong hệ thống ngân hàng lẫn trên thị trường tự do trong mấy tuần qua. Nhìn nhận chiều hướng tăng này, nhiều người bày tỏ lo ngại ảnh hưởng tiêu cực của tỷ giá tăng lên thương mại, lạm phát và đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) can thiệp để ổn định tỷ giá.

Đáp lại, NHNN đã lên tiếng trấn an dư luận, lập luận rằng sự tăng tỷ giá có yếu tố tâm lý trong khi cung cầu không có biến động mạnh và hệ thống ngân hàng thương mại vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu chính đáng về ngoại tệ, còn NHNN thì có đủ công cụ để bình ổn tỷ giá, gồm bán ngoại tệ để can thiệp. Hiện thực hóa tuyên bố này, hồi đầu tháng Sở Giao dịch NHNN đã niêm yết giá bán ra 23.050 đồng/USD. Thị trường lập tức đã lắng dịu, nhưng sự lắng dịu này chỉ kéo dài được một vài ngày, để rồi tỷ giá lại khôi phục đà tăng trong những ngày gần đây và phá vỡ mốc mua, bán 23.000 đồng/USD.

Nhìn nhận tình hình hiện tại và kết hợp với những gì rút ra được trong quá khứ diễn biến của tỷ giá, điều có thể nói được trước tiên là tỷ giá đang diễn biến hết sức... bình thường!

Sự bình thường này đến một phần từ việc NHNN cho đến nay luôn chỉ tuyên bố sẽ ổn định tỷ giá trong biên độ cho phép, chứ họ không nói là sẽ ổn định tỷ giá ở một mức cụ thể nào đó. Nên sự tăng lên hay giảm đi (nếu có) của tỷ giá trong thời gian qua và cả sắp tới là một điều tự nhiên (bình thường), tất nhiên là không được vượt quá biên độ +/-3% xoay quanh tỷ giá trung tâm.

Sự thả lỏng cương của NHNN với tỷ giá còn thể hiện ở việc họ đã thực sự có tăng, có giảm tỷ giá trung tâm hàng ngày, mà theo định nghĩa của NHNN thì đã bao gồm cả các yếu tố thị trường, chứ không hoàn toàn mang tính chủ quan, duy ý chí như đã xảy ra với tỷ giá liên ngân hàng do NHNN công bố trước đây.

Bởi vậy, trên giác độ NHNN đã tăng khá liên tục tỷ giá trong mấy tuần qua thì lẽ ra dư luận cần hiểu rằng NHNN đang muốn, đang chấp nhận một đồng bản tệ yếu đi so với USD, để không còn phải cứ tiếp tục “băn khoăn” mãi với những tiêu cực theo lý thuyết đến từ việc giảm giá tiền đồng.

Sự bình thường trong diễn biến của tỷ giá mấy tuần qua còn đến từ những yếu tố khách quan và chủ quan khác. Nếu đặt mình vào vị trí của NHNN, người ta sẽ thấy có rất ít yếu tố ủng hộ việc NHNN bán USD để can thiệp, ổn định tỷ giá như trước đây.

Về nguồn lực can thiệp, đành rằng dự trữ ngoại hối đã tăng kỷ lục lên trên 63 tỷ USD, nhưng mức này không thể coi là lớn nếu quy theo số tháng nhập khẩu, vốn cũng không “nhiều nhặn” gì so với vài ba năm trước đây (vẫn chỉ loanh quanh 3 tháng nhập khẩu – là mức tối thiểu theo khuyến nghị của thế giới).

Về khả năng can thiệp thành công, quá khứ can thiệp vào tỷ giá của NHNN cho thấy kết quả là hầu như chưa bao giờ NHNN chiến thắng được thị trường, bất chấp những trấn an, cam kết mạnh mẽ và cả hành động cụ thể. Sự ổn định tỷ giá, nếu có, chỉ được tính theo tuần. Đổi lại kết quả khá thất vọng này là sự sụt giảm sâu của dự trữ ngoại hối dưới mức  an toàn tối thiểu trong nhiều thời kỳ.

Về điều kiện thị trường, sự nới lỏng chính sách tiền tệ thể hiện qua dư thừa thanh khoản và sự đi xuống của lãi suất liên ngân hàng tiền đồng trong thời gian qua là một trong những yếu tố quyết định sự suy yếu của tiền đồng so với USD. Có thể đây là một chủ ý của NHNN khi vừa muốn tạo điều kiện cho lãi suất cho vay ở Việt Nam giảm đi, vừa muốn một đồng bản tệ yếu hơn để hỗ trợ xuất khẩu. Nếu đúng là vậy thì chủ ý này không có gì sai trái, thậm chí còn là một lựa chọn chính sách tối ưu.

Từ bên ngoài, điều kiện cũng tỏ ra bất lợi cho NHNN nếu muốn ổn định tỷ giá. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung (và chiến tranh tiền tệ đang manh nha hình thành với sự suy yếu của đồng yuan), và sự mạnh lên của kinh tế Mỹ kéo theo sự mạnh lên của USD làm cho nhiều nước muốn và/hoặc buộc phải thi hành một chính sách đồng tiền yếu, lấy đó làm hậu thuẫn duy trì cho xuất khẩu của mình, đồng thời giúp sức bảo vệ thị trường trong nước trong bối cảnh có rất ít công cụ và giải pháp có thể có để đối phó với những diễn biến bất lợi từ bên trong và bên ngoài như hiện nay. Việc “quyết liệt” ổn định tỷ giá trong bối cảnh như vậy chắc chắn sẽ chỉ thu được mỗi cái danh hiệu là “đồng tiền ổn định nhất” hoặc tương tự, trong khi những cái hại (trực tiếp và gián tiếp) thì nhiều và lớn, một phần như đã được phân tích ở trên.

Đến đây, điều “băn khoăn” từ nhiều người sẽ là nếu NHNN muốn/bắt buộc phải theo đuổi chính sách tiền đồng yếu hơn, đâu sẽ là điểm dừng? Nói cách khác, tiền đồng cần/nên yếu đi bao nhiêu thì được coi là đủ?

Câu trả lời phụ thuộc phần lớn vào diễn biến của tỷ giá trung tâm. Nếu NHNN không lạm dụng yếu tố chủ quan trong cơ chế xác định tỷ giá trung tâm (gồm các cân nhắc về chính sách) mà dựa nhiều hơn vào các yếu tố khách quan như diễn biến tỷ giá của một rổ 8 đồng tiền quốc tế, thì sẽ có được một tỷ giá trung tâm, và do đó một biên độ tỷ giá linh động hơn, phản ánh sát hơn tình hình biến động của các đồng tiền tham chiếu trong rỏ tiền tệ.

Nếu tỷ giá biến động mạnh, có nguy cơ làm tăng lạm phát trong ngắn hạn, NHNN có thể cân nhắc áp dụng giải pháp nâng lãi suất để giảm áp lực lạm phát tại Việt Nam, mà không cần phải rút lại chính sách tiền đồng yếu nếu thực sự thị trường đòi hỏi phải như vậy. Theo cơ chế can thiệp kiểu này, một mặt NHNN vẫn ở tư thế sẵn sàng mua USD với giá cao (hơn thị trường) để làm tăng tỷ giá theo ý đồ và tính toán dựa trên các yếu tố thị trường, một mặt thì tăng cường hoạt động trên thị trường mở để hút tiền đồng về nhằm làm tăng lãi suất.

Lãi suất tăng như trên sẽ không nhất thiết gây tổn hại cho tăng trưởng kinh tế bởi tăng trưởng kinh tế sẽ được hỗ trợ bởi xuất khẩu ròng được duy trì, hoặc tăng lên (xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm) do tiền đồng yếu đi so với USD và/hoặc các bản tệ khác.

Kinh tế vĩ mô ổn định với lạm phát được kiềm chế, cán cân thương mại và vãng lai thặng dư, tăng trưởng kinh tế được duy trì sẽ chính là các yếu tố hấp dẫn và níu chân nhà đầu tư nước ngoài, bất chấp việc tiền đồng có yếu đi hay không.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).